tháng 6 30, 2009


Trần Vấn Lệ, Trần Huy Sao&Phần Đời, Hà Mai Khuê


Tôi có đến tham dự " Ngày Họp Mặt Đàlạt" truyền thống hàng năm.
Đến địa điểm, vừa xuống xe, Nhà tôi đã "lặn" đi đâu mất tiêu ! Có lẽ đang nôn nóng đi tìm mấy người bạn cũ. Cựu dân Bùi Thị Xuân mà. Như rồng gặp mây, như cá gặp nước. Mà cũng đúng thôi, một măm chỉ có một ngày để mà đưa nhau về thăm Đàlạt. Thăm lại cái thời xuân trẻ xa xưa, ngẩn ngơ nhớ lại mái tóc thề, nhớ vẻ yểu điệu thướt tha tà áo trắng, cười nói hồn nhiên, yêu đời phải biết !
Mọi người đã đến khá đông. Tiếng cười nói xôn xao rộn cả lòng. Tôi được anh Tiến đón đầu tiên. Anh vồn vã :
- Đến đây, đến đây. Có người ái mộ đấy !
Tôi bắt tay anh, xiết chặt :
- Thôi, ông Tướng ơi ! Đừng có làm lớn chuyện. Ông lại bày vẽ, thêm thắt gì đây ?
Anh Tiến cười, vỗ vỗ vai tôi :
- Không đùa đâu. Có người muốn gặp đấy. Đằng kia kìa, nhanh chân lên kẻo lại mất phần.
Tôi được giới thiệu và quen biết chị Hương trong trường hợp đó. Chị dáng người thon thả, gương mặt thanh tú và đặc biệt, có đôi mắt rất buồn. Mái tóc chị đã gần như bạc trắng,được bới xén cẩn thận. Chị ăn nói nhỏ nhẹ và hình như, rất là thích nói chuyện. Biết tôi người ở Khu số Bốn, một cái xóm nhỏ cách trung tâm thành phố 4 cây số nên thường được gọi là như vậy, cho nên chị muốn được gặp. Nguyên do chính cũng từ anh Trấn mà ra. Anh Trấn, thì tôi có biết vì cũng cùng là dân Khu Số Bốn với nhau. Nhà anh ở cuối dốc Ngô Quyền gần Khuôn hội Tuệ Quang. Trước nhà anh có cây ổi, tới mùa trái trĩu cả cành trông thiệt là hấp dẫn. Anh học trên tôi rất nhiều lớp, cũng là dân Trần Hưng Đạo cả. Tôi còn nhớ cứ mỗi năm vào mùa ổi đi ngang qua nhà anh thì cứ phải đứng lại nhìn ngắm những trái trĩu cành, ao ước thòm thèm không muốn bước chân đi. May mắn lúc nào có anh thơ thẩn đứng trong sân, thế nào anh cũng cười cười và nói đùa :
- Thế nào ? Mua bao nhiêu đây, chú em ?
Thấy tôi đứng tần ngần, anh cười khoái chí, vít cành ổi xuống chọn những trái no tròn vàng bóng đưa tôi. Có hôm còn vào nhà lấy cho tôi cả gói muối ớt. Vì vậy, nên cứ tới mùa ổi là tôi thường cố tình đi ngang qua nhà anh, mong mỏi được gặp anh đứng thơ thẩn trong sân để nhận từ tay anh từng trái ổi no tròn vàng bóng. Sau này, anh lên đường nhập ngũ. Chú học trò bé nhỏ là tôi cũng lớn rồi, mỗi lần đi ngang qua nhà anh, không còn có cái cảm giác ao ước thèm thuồng như ngày nào nữa.
Sau Mậu Thân 1968 biết tin anh tử trận ở chiến trường cao nguyên, lúc đó tôi cũng đã dời xa Đàlạt…
Với anh, tôi chỉ có chừng đó điều nhắc nhớ.
Nhưng với chị Hương, thì không. Suốt cả một buổi chị hỏi tôi đủ điều và kể cho tôi nghe đủ chuyện về anh Trấn. Chị rất vui thích câu chuyện về những trái ổi mà anh Trấn cho tôi. Tôi nhận biết một điều rất thú vị là chị thương nhớ cái khu xóm nhỏ của tôi bằng một tình cảm thật nồng nàn, chan chứa. Chị say sưa gợi nhắc lại từ những nơi chốn rất nhỏ nhặt làm như chính chị đã từng sinh ra và lớn lên từ khu xóm ấy. Những con đường mòn ngang dọc rậm rạp cỏ tranh gai, cỏ cú đi sâu vào khu Lãnh Địa Đức Bà chị vẫn còn nhớ. Những bụi Quỳ Hương hoa vàng rộ nở mùa Đông dọc dài theo con dốc bên hông Chùa Linh Quang, chị cũng không quên. Đến cả cái hố rác Bà Sơ sâu hút cuối con dốc Chợ Chiều và những bụi Sim dại mọc đầy dưới chân núi Trọc, phủ lấp con đường mòn ngoằn ngoèo dẫn vào thác Cam Ly Hạ, chị cũng ngọn ngành không bỏ sót...
Mấy mươi năm rồi, ít gì đâu ! Cái khu số Bốn, cái xóm nhỏ của tôi, đã có nhiều thay đổi theo thế sự thăng trầm. Nhưng tôi biết là trong trí nhớ của chị chỉ có ngày xưa. Và trong cái-ngày- xưa đó có hình ảnh của anh Trấn. Có mối tình đầu chị để lại và, giữ mãi cho tới bây giờ...
Chị nói chuyện say sưa đến quá trưa, than mệt và xin được cáo từ. Tôi ý tứ quay nhìn đi chổ khác để chị tự nhiên lau nhanh dòng nước mắt. Trước khi dợm bước, chị còn nói với tôi :
- Cái buổi trời mưa đó là lần cuối cùng...
Rồi chị bước đi. Không lời giã từ. Không hẹn lần gặp. Không để cả số phone.

Không có nhận xét nào: