tháng 9 30, 2014

Cơm Chiều Đạm Bạc


 

...rau dưa qua bữa nhớ qua ngày
đến nỗi chi mà lạc tới đây.....


Buổi chiều. Cả nhà ngồi quây quần xum họp.
Nói là cả-nhà e ra là nói quá. Đúng ra, là chỉ một phần, của cả-nhà thôi!
Nhà có bốn người con từ buổi đầu dắt díu nhau qua vùng quê mới. Trải mưa dầm nắng dọi đã có nhiều đổi thay...
Anh Hai đã có gia đình riêng.
Chị Ba đã có gia đình riêng.
Cả hai gia đình anh Hai chị Ba đã có cơ ngơi vững vàng riêng lẻ. Có những buổi chiều quây quần xum họp riêng tư.
Chỉ còn lại Tư Đào và Út Linh đang còn ở với Ba Mẹ.
Nói cả-nhà là ý nói ôm đồm cho thêm ấm cúng. Mai mốt chú Tư Đào cô Út Linh rồi lại ra riêng, chắc chắn là phải ra riêng. Không biết ngày lành tháng tốt nào cô chú quyết định ra riêng để hai ông bà (già) như hai con khỉ (già) trong sở thú. Bắt chí cho nhau và làm trò...khỉ cho nhau coi đỡ, bớt, thấy buồn.
Ngày ra riêng cô chú, nào đây, thôi thì cứ hẳn tính sau.
Bây giờ cả nhà ta đang (được) quây quần bên buổi cơm chiều.
Buổi chiều mà được quây quần xum họp là một buổi chiều hiếm hoi khó tìm trên vùng đất lạ xa quê. Cũng may là công việc làm của mọi người cùng chung giờ. Sáng còn chào nhau khi lên xe rồ máy . Chiều còn quây quần xum họp... rau dưa qua bữa nhớ qua ngày...đến nỗi chi mà lạc tới đây....
Buổi cơm chiều nay đang dòn dã nhắc nhớ tới những buổi cơm chiều quê xưa với nhiều món ăn đâu thua nhà hàng :
- Mắm quẹt kho tiêu ( quẹt một đũa thôi là đủ nuốt trôi chén cơm độn khoai lang lát)
- Đậu phụng kho queo ( đậu phụng ít nước mắm nhiều thêm chút đường, chút dầu tiêu chuẩn của cô giáo “lưu dung” đang đi về phía mấy thầy-giáo-tháo-giày !).
- Tô canh rau cải tự cung tự cầu của anh chàng cải tạo mới về tăng gia sản xuất ( không hề, và chưa hề dám thấy, có chút thịt hay, cao cấp hơn, là tôm(dù là tôm khô!). Chỉ dám mượn nhờ ngọt nước, để nuốt trôi cơm, từ “ tiêu chuẩn” mì chính của cô giáo “lưu dung”).
- Ớt ( dằm nước mắm “tiêu chuẩn công nhân viên”. ). Gọi là đưa cay, hay, đưa cơm ! Ớt tự cung tự cầu không được có trong “tiêu chuẩn”. Do bởi, vì, được phóng khoáng tự do nên vườn ớt nhà đã một thời sai trái đỏ xanh. Nhưng có một điều là ớt không
nuôi được con người. Ớt chỉ làm thêm cay cuộc sống để vượt lên chất đắng một thời cưu mang.
( Không như ngày xưa ăn ớt như nhồng, nay tôi thành thật rất buồn vì không còn có khả năng ăn ớt nữa dù vẫn cứ tự trào mình là người-việt-gốc-ớt.)
Chẳng hiểu vì sao!
Hay có thể ở nơi tôi đang ở, đời đã không còn đắng nữa nên chẳng cầu vị cay để hòa giải đắng cay !
Hay là vì hương vị ớt quê người không hấp lực như vị ớt quê hương .
Hay, chính tôi, đã không còn là người quê cũ !
Đã tha hương ! Đã mất dấu đoạn trường.
Ngày đó, do vì thực đơn đời sống nguy cơ thiếu dinh dưỡng quá nên phải “cải thiện” đời
Đi câu cá lòng-tong ở đập Đa Thiện.
Đi câu tôm ở hồ Xuân Hương.
Đi xúc hến, mò cua ở suối Cam Ly Hạ
Đi hái nấm mối ở đồi Trọc
Ngày xưa là vì nhu cầu bức thiết từ cuộc sống còn.
Bây giờ thì nhắc lại để cảm nhận là mình còn sống.
Còn sống để nhớ mãi, nhớ hoài, nhớ thâm căn cố đế lon ”gô” cá lòng tong ở hồ Đa Thiện đem về một nửa kho rim để bới ăn đi làm một nửa chiên bột để “cải thiện tại chỗ” cho cả nhà có chất tươi xanh. Cá lòng tong có một chút mà... lăn chiên... cục bột to đùng để cứu đói. Những con tôm hiếm hoi ít ỏi ở hồ Xuân Hương thì cục bột...lăn chiên...to hơn chút để có phần bột chiên chia đều mà ghém rau cho vừa một...ghém miệng. Con hến, con cua ở suối Cam Ly Hạ thì thi thoảng. Nấm mối ở đồi Trọc thì dành thay thịt để đổ bánh xèo thi vị những ngày mưa da diếc buồn đàlạt....
Cơm chiều đạm bạc của những ngày xưa....

Hôm nay, cũng cơm chiều, cả nhà quây quần nhắc nhớ chuyện ngày xưa.
Bữa cơm chiều nay không đạm bạc rau dưa nhưng tấm lòng thì đạm bạc khi chú Tư Đào và cô Út Linh còn biết nhớ ( dù rất mường tượng) và thương những tháng ngày đói cơm lạt mắm ngày xưa....
Cô chú khi qua vùng đất mới còn nhỏ tí, mà nay...

chiều 15/09/2009
(trích Truyện Ngắn Trần Huy Sao, 2013, Hiên Trăng)

 

 

Trái Thù Lù


Đi suốt dọc quầy rau tươi, vẫn chưa tìm được bó rau tía tô nào. Có lẽ hôm nay rau về chưa kịp. Tôi định chọn bó rau thơm nhưng nghĩ đến món bún bò Huế, chắc chắn là rau tía tô sẽ thích hợp hơn. Món ăn có được hương vị đậm đà ngoài việc gia giảm nêm nếm gia vị, còn tùy thuộc vào hương vị của từng loại rau. Ăn Phở, nhất định là phải có rau húng quế, ngò gai. Ăn bún riêu, không thể nào quên mùi rau kinh giới. Còn món bún bò Huế, nhất định là phải có mùi hương của tía tô và chút rau răm để tăng thêm phần hấp dẫn  của tô bún đặc sản  miền sông Hương núi Ngự. Chưa nói tới là phải có vị nồng cay của ớt mới thật là đúng điệu. Ông Bà ta xưa rất cầu kỳ và có nhiều kinh nghiệm trong việc ăn uống, xem đó như là một nghệ thuật cao.
Nghệ thuật ăn uống đã đi vào đại chúng với vô số những câu ca dao truyền khẩu có, thành văn có.  Nhiều  câu chúng ta hầu như  đã thuộc nằm lòng :
con gà tục tác lá Chanh
con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi
con chó khóc đứng khóc ngồi
Bà ơi đi chợ mua tôi đồng Riềng
thế mới biết là món ăn cũng phải tùy thuộc vào từng hương vị của  mỗi loại rau là vậy.
Tôi cầm bó rau nhìn qua ngắm lại tần ngần. Cuối cùng tôi bỏ lại và quyết định đến khu chợ Á đông  khác. Để  tô bún bò Huế  mất đi  hương vị đậm đà  thì thật  là uổng  công cho người nấu mà cũng phụ lòng người ăn. Thôi thì chịu khó mất công một chút để được trọn vẹn cả đôi đường. Vừa dợm bước, tôi bỗng nghe tiếng chân chạy lao xao và tiếng reo vui :
- Ồ, Ba ơi, có trái thù lù...
Câu nói bất ngờ chợt làm tôi xúc động, thoáng bâng khuâng nghĩ về một kỷ niệm xưa. Tôi khẽ liếc lên hàng kệ trên cao, nơi bày bán loại trái Potomalis. Đây là loại trái đặc biệt có lớp vỏ mỏng như giấy bao bọc phía ngoài. Khi lớp vỏ giấy bên ngoài khô giòn đổi màu vàng úa thì trái bên trong đã đến độ chín. Vỏ bọc càng khô, trái càng chín nẫu. Trái có vị ngọt đậm pha lẫn chua. Kết cấu bên trong là nhiều hạt nhỏ như hạt cà chua nhưng vỏ của trái có độ dày hơn. Loại trái này hầu như được bày bán rất nhiều tại các chợ Mỹ. Tôi hoàn toàn không biết dùng để nấu món gì nhưng chắc chắn là không phải để ăn thường như  các loại Táo, Nho...
Mỗi lần thấy nó, tôi liên tưởng ngay đến trái thù lù ở quê nhà. Nếu gọi là thù lù thì chính trái Potomalis ở đây mới đúng nghĩa, bởi vì nó to...thù lù. Còn ở quê nhà, trái chỉ to bằng đầu ngón tay út. Họa hoằn lắm mới có một trái tạm gọi là to, nhưng cũng chỉ nhỉnh hơn chút mà thôi.
Nhỏ như vậy sao lại gọi là trái thù lù ?. Hay là vì nó tròn vo, đầy đặn, bóng lưởng lúc đến độ chín ! Cũng có thể gọi như vậy từ một nghĩa khác. Tiếng gọi nhân gian truyền khẩu, cũng có lý do và ý nghĩa riêng của nó. Định bụng hôm nào rảnh rỗi. Ghé qua Thư viện để tìm hiểu về loại trái cây này.
Vừa lúc đó, chú bé đã liến thoắng chạy đến bên cạnh tôi, nhón chân để nhìn cho rõ mớ trái Potomalis chất đầy trên kệ. Tôi im lặng âm thầm theo dõi. Đôi mắt chú sáng rực, không phải biểu lộ sự thèm thuồng mà là sự ngạc nhiên thích thú. Chú rón rén cầm lấy một trái quan sát rất kỹ rồi buộc miệng :
- Chu cha, to quá !
Tôi suýt phì cười. Câu nói đó tôi cũng đã có lần buộc miệng khi lần đầu tiên nhìn thấy những trái Potomalis, những ngày chân ướt chân ráo đến định cư  tại đây. Vẻ mặt chú rạng rỡ. Chú nâng niu trái  Potomalis trên tay rồi  dáo dác nhìn quanh, ý chừng tìm kiếm người Cha, để chia xẻ niềm vui bất chợt. Vừa lúc đó, có tiếng chân phía sau tôi và tiếng nói, giọng miền Trung :
- Con đang tìm chi đó, Cu Tí ?
Chú bé có  tên là cu Tí, chắc  chắn  chỉ  là tên  gọi thường ngày trong nhà, vừa thấy Cha, chú mừng rỡ :
- Trái thù lù nè Ba !
Người Cha bước tới, nhìn trái Potomalis trong lòng bàn tay nhỏ nhắn của con. Ông có vẻ ngạc nhiên :
- Phải không đó ?. Sao mà hắn to dữ ri ?
Cu Tí nhà ta làm ra vẻ sành sỏi :
- Phải mà, Ba. Trái thù lù đó. Bộ Ba không thấy ở Mỹ cái chi cũng to hết. Người Mỹ, hắn cũng to gấp mấy người mình..
Người Cha vẫn chưa hết ngạc nhiên :
- Đâu?.Con đưa Ba coi thử.
Ông ta vội vàng cầm trái Potomalis từ tay thằng Tí, mân mê lớp vỏ bên ngoài rồi ngắm nhìn kỹ cái trái vàng bóng bên trong. Cuối cùng ông gật gù :
- Đúng là trái thù lù rồi. Mà sao hắn to dữ hè ?
Cu  Tí nhìn ông, cười sảng khoái :
- Ở Mỹ mà Ba.
Ông ta không nói gì, bỏ trái lại chỗ cũ. Thằng Cu Tí thấy vậy, vội vàng nói :
- Lát nữa Ba mua cho con mấy trái ăn thử, nghe Ba !
Tôi thấy ông ta ngần ngừ  một thoáng rồi mới nói với con :
- Thôi, để Ba mua táo với nho con ăn cho “ đã”. Mấy loại trái ni bên nhà có khi mô mà con được rớ tới. Ăn trái thù lù ngon lành chi !. Ở bên nhà con ăn hoài rồi...
Tôi thấy mặt Cu Tí phụng phịu, nó nắm lấy tay áo của Cha giật nhẹ, mặt ngước nhìn lên, nài nỉ :
- Đi Ba ! Mua cho con đi. Con thèm lắm !
Trong ánh nhìn thơ trẻ đó, tôi hình như thấy một nét buồn xa vắng. Không phải là nét buồn vì không thỏa mãn được lòng mong muốn. Nó còn hơn thế nữa. Vời vợi đến nao lòng. Tôi chỉ cảm nhận mà không diễn tả được.
Người Cha vẫn chưa thấy trả lời. Cu Tí lại nài nỉ :
- Mấy trái thù lù mọc trên mộ Mạ con, ăn ngọt lắm. Con muốn ăn lại trái thù lù, con nhớ ...
Tự nhiên tôi sững người. “ Mấy trái thù lù mọc trên mộ Mạ con, ăn ngọt lắm”. Những tiếng nói đó như xoáy vào tim tôi, đau nhói. Câu nói này tôi cũng đã có lần nói với anh tôi , từ gần bốn mươi năm trước, khi hai anh em trên đường về xóm nhỏ “ Mấy trái thù lù mọc trên mộ Mạ, ăn ngọt thiệt “. Ngày đó, tôi cũng trạc tuổi như  Cu Tí bây giờ..
Tôi thẩn thờ bỏ bó rau xuống và quày quả ra xe. Hình ảnh và câu nói trùng hợp đã làm tôi xúc động đến nghẹn ngào. Tôi muốn ngồi yên lặng một mình để dịu bớt nỗi buồn chợt đến từ một câu nói trùng hợp vô tình đã khơi dậy trong tôi những kỷ niệm buồn về những ngày thơ ấu. Những trái thù lù vàng bóng nằm bên trong lớp vỏ lụa mỏng khô đã cho tôi niềm vui thơ dại.
Không biết tự lúc nào, cây thù lù đã mọc bên cạnh mộ Mẹ tôi. Lứa trái bói đầu tiên tôi được ăn là những ngày tôi còn học ở Trường tiểu học Đa Nghĩa rồi chuyển lên trường Bạch Đằng. Ngay cả khi tôi vào trung học Trần Hưng Đạo, những trái thù lù vàng óng vẫn là niềm vui khi tôi ghé thăm mộ Mẹ. Sau này, khi đã vào đời , những trái thù lù vẫn mãi là niềm vui đối với tôi. Tuy ở vào mỗi thời điểm, niềm vui  có những trạng thái khác, nhưng vẫn là niềm vui mà tôi không thể nào quên được. Nó gắn liền vào cuộc đời tôi về hình ảnh người Mẹ đã bỏ tôi đi khi tôi còn quá nhỏ.
Nhưng có lẽ, kỷ niệm về trái thù lù mà tôi nhớ nhất là những tháng, năm trải dài tuổi thơ của tôi trong cái xóm đình Đa Cát, một khu xóm nghèo cùng cực. Người lớn thì lam lũ suốt ngày lo thắt ruột vì miếng ăn. Trẻ con thì đầu trần chân đất quanh năm suốt tháng. Chính cái vị ngọt chua đằm thắm của từng trái thù lù chín mọng đã là niềm vui lớn của tôi. Đúng, phải nói là một niềm vui lớn. Bởi vì tuổi thơ của tôi là những chuỗi ngày dài ăn chưa đủ no, thèm mà không có. Cảnh đói nghèo mà cái xóm đình Đa Cát của tôi phải triền miên chịu đựng đã là nguyên do để cho những người trong xóm phải tha phương cầu thực. Người đi xa khuất nẻo thì không biết thế  nào nhưng  những người  còn lại thì  quanh năm suốt tháng vẫn cứ ôm cảnh đói nghèo. Và thèm, thèm đủ thứ.
Vì thế cho nên khi phát hiện cây thù lù mọc gần mộ Mẹ tôi có những trái mọng vàng ngọt chua đến lịm cả lưỡi thì làm sao tôi không vui cho được ! Cứ tưởng tượng khi ngậm trái thù mát rượi vào miệng rồi cắn nhẹ. Cảm giác đầu tiên là chất nước ngọt ngào ứa ra rồi sau đó là những hạt nhỏ khi nhai có vị chua làm tê đầu lưỡi. Vị ngọt và chua hòa quyện lẫn nhau tạo nên một cảm giác thật khó mà diễn tả. Nó làm dịu lại những thèm khát lâu ngày. Mỗi lần lên thăm mộ Mẹ trúng mùa trĩu quả, tôi thật không thấy niềm vui sướng nào bằng. Trong trí tưởng tượng của tôi ngày đó, tôi cứ nghĩ là Mẹ đã trồng cây thù lù này dành cho anh em tôi. Bởi vì, trải dài qua hai ngọn đồi rộng lớn của khu Mả Thánh chỉ toàn là loại cỏ tranh và cây ngũ sắc. Thưa thớt, có vài lùm bụi sim rừng và những cụm bông vạn thọ, loại bông vạn thọ núi hoa nhỏ có màu vàng pha đỏ sặc sỡ và lá nhỏ màu xanh đen đến mùa nắng trở màu vàng cháy..  Vậy  mà, bên cạnh mộ Mẹ tôi lại  có cây thù lù quanh năm tranh sống với loài cỏ tranh, một  loại  cỏ không  chịu chung  chạ với bất  cứ loại cây nhỏ nào. Như  một phép lạ,  cây thù lù vẫn cứ vươn mình ngạo nghễ và cứ vẫn đều đặn ra hoa đậu quả. Teo tóp khô cằn trong mùa Đông  nghiệt ngã  rồi lại đâm  chồi nẩy lộc vào độ Xuân qua để kịp cho những quả mọng vàng bóng lưởng vào mùa Hè.
Đó cũng là lý do tôi thường lên thăm mộ Mẹ vào mùa Hè. Khu nghĩa trang vắng lặng vàng hoe dưới ánh nắng. Những lùm cỏ tranh đã đến kỳ vàng cháy, ngả nghiêng xơ xác. Cây thù lù bên cạnh mộ Mẹ tôi vẫn giữ nét phong độ của những ngày Xuân. Lá tuy thưa thớt ngả vàng nhưng thân mộc vẫn sung mãn vươn lên oằn sai những quả. Lớp thì đang vàng chín trên cây, lớp thì chín muồi rụng xuống. Mỗi lần lên thăm mộ, hai anh em tôi tranh nhau lượm quả chín. Anh tôi thì lúc nào cũng có vẻ chậm chạp ( sau nay tôi mới nghĩ ra là anh có ý nhường nhịn cho tôi ) nên phần anh giành được rất ít. Lượm trái rụng xong lại giành nhau hái những trái chín vàng trên cây, Sau đó, hai anh em nằm ngả ra đám cỏ tranh khô, vàng cháy nheo mắt nhìn những đám mây trời và bắt đầu nhâm nhi từng trái thù lù. Mây trời khi tụ khi tan, biến dạng thành những hình thù quái dị theo trí tưởng tượng của chúng tôi.
Khi tôi vào Trung học thì anh tôi đã vào đời rất sớm và không còn ở bên cạnh . Cây thù lù đã trở thành vật sở hữu riêng tôi.Những lần lên thăm mộ vào mùa Hè cây oằn sai những trái chín nhưng sao lòng tôi không còn háo hức như ngày nào. Vị ngọt ngào chua thanh vẫn tê lịm đầu lưỡi làm dịu những cơn thèm khát nhưng tôi vẫn cảm thấy buồn, một nỗi buồn không diễn tả được. Chỉ cảm nhận như có một  sự  trống  vắng, hụt  hẫng. Thường thì  tôi ngủ thiếp đi cho đến lúc cảm thấy lành lạnh mới chợt giật mình thức giấc. Và buồn bã ra về dưới bầu trời bắt đầu thỏang mù hơi sương…
Sau này, khi khôn lớn vào đời, hình ảnh cây thù lù và những trái chín vàng bóng lưởng vẫn theo tôi mãi không rời. Thời gian này tôi không còn có dịp tìm lại được vị ngọt ngào chua thanh của trái đang vào mùa chín rộ.Cuộc sống rày đây mai đó đã đẩy xa tôi những cảm giác ngày xưa và lại càng không  có dịp  tìm  lại  hương vị của những  giờ phút nằm ngắm mây trời, nhâm nhi từng trái ngọt. Thi thoảng, có về thăm nhưng vào những dịp trái mùa. Theo thời gian, thân gốc tuy đã già nua cằn cỗi nhưng vẫn tranh sống với loài cỏ tranh, vẫn xanh tốt xum xuê.
Những ngày xa quê, tôi vẫn còn giữ  những kỷ niệm thời thơ ấu với vị ngọt ngào chua thanh của trái thù lù chín tới. Mãi mãi trong đời, tôi chẳng thể nào quên được…
Khi anh viết câu chuyện này chắc chắn là em đã trưởng thành. Thành phố nhỏ bé này ngó vậy mà rộng lớn bởi vì anh có ý tìm em mà không hề gặp. Có thể là từ sau lần giáp mặt lần đầu tiên trong khu chợ Á Đông, gia đình em lại dời qua nơi khác. Cũng có thể duyên may chỉ đến với anh em mình một lần duy nhất đó. Nhưng dầu thế nào đi chăng nữa, anh cũng mong rằng em có dịp đọc được câu chuyện này để chia sẻ cùng anh một cảnh đời trùng hợp.
Được sống lại những cảm giác bồi hồi, dù chỉ là giây phút, về một kỷ niệm xưa cũng là niềm hạnh phúc trong đời.
Anh gởi đến em, Cu Tí, niềm hạnh phúc nhỏ nhoi này để nhớ về một tình cờ giáp mặt
 Hiên Trăng Brookhurst 09/1998
(trích Truyện ngắn Trần Huy Sao, 2013, Hiên Trăng)

Một Đời Thở Ra Thơ


 ta làm Thơ mổi ngày như cơm bữa
thà thiếu cơm không thể thiếu Thơ
thú đam mê suốt đời đâu dễ bỏ
vui cũng ra Thơ buồn cũng ra Thơ

mấy tay làm Thơ suốt đời mang nợ
vừa nợ văn chương vừa nợ tình đời
cay-đắng-ngọt-bùi cưu mang không nổi
cứ bỏ vô Thơ chia sớt đoạn trường

đường trần gian vốn lời nghiệp chướng
ai đi qua cũng vay trả ít nhiều
ta một đời Thơ vốn lời bao nhiêu
nhưng cũng đủ sương sương tầm trả nợ

giờ thì cứ an nhiên mà hít thở
bởi đang còn được hít thở với đời
còn được có Thơ trong cuộc rong chơi
thì cứ vậy thôi cho đời thêm thi vị…

Hiên Trăng tháng 9/2014

Tô Cơm Hến



 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
con về thăm Mạ thăm Ba
ghé món cơm Hến quê nhà đó thôi  
chồng con hắn nói lâu rồi
là thèm có bữa đã đời đã bưa
tô cơm Hến rặt Huế xưa
em nhớ nói Mạ tra vừa ớt thôi
cái thằng theo cuộc đổi đời
bỏ lơ cây ớt trông vời trông theo
Huế mình lên núi qua đèo
vượt truông trấn ải cũng khoèo ớt theo
ớt là hương Huế đó nghen
tra vừa sao chộ món quen quê mình
có thêm ớt mới hữu tình
xuýt xoa cay mắt hai mình ngó nhau
ngó nhau để nhớ thương lâu
nhờ tô cơm Hến rủ nhau ngó hoài....

Hiên Trăng, chiều 28/09/2014

 

 

tháng 9 27, 2014

Nghìn Thu Vĩnh Biệt



 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

thủ bút của anh
 
 Tưởng nhớ anh : Giáo sư Trần Phụng Đình
        (nhà báo Hải Âu Trần Lai Nghi )
                 (1932 – 2003)
Mira Mesa
gặp nhau lần cuối
quán Bolsa- tô phở gà- câu chuyện thơ văn
anh lên xe- mỉm cười
đưa tay vẫy
đó là lần cuối cùng – anh Nghi ơi !
anh về El Cajon
tôi về Hiên Trăng Brookhurst

chia tay chưa lâu mà lòng tôi đau nhói
khi nghe tin anh yên giấc ngàn thu
tôi khóc trong phôn
thương quá tình bằng hữu

lòng ly xứ níu đời nhau là bạn
cả khi vui và cả lúc buồn
thi thoảng, gặp nhau, nhắc nhớ chuyện đời
tôi nhớ mãi nụ cười anh, nhớ quá!

như là mới hôm qua
anh nhắc tôi gởi bài về KBC Hải Ngoại
nghe giọng nói và tiếng cười thoải mái
tôi có ngờ đâu, có ngờ đâu, anh đi xa...

chiều hôm nay buồn lặng nhìn anh
tôi khóc mà sao anh không thấy!
nắm bàn tay anh, ôi chao, là lạnh ngắt
chỉ có ấm nồng nước mắt tôi rơi !

buồn quá anh Nghi ơi !
vậy là nghìn-thu-vĩnh-biệt
bỏ lại cho tôi bao nhiêu là kỷ niệm
anh nỡ nào đành đoạn đi xa ...

đêm tĩnh lặng giữa trời xa đất lạ
ngưòi ra đi người ở lại, sao đành !
sương rớt bên hiên gió trời se lạnh
tôi viết bài thơ buồn-nhớ-thương anh...

Đêm cầu nguyện 23/10/2003
bằng hữu đến nhìn anh lần cuối

 

 

 

tháng 9 24, 2014

Hải Âu Phi Xứ



MỘT THOÁNG BÂNG KHUÂNG 
Em còn nhớ hay em đã quên
Chiều mưa Phan Thiết chiều êm đềm
Đường Trần Hưng Đạo nhiều lưu luyến
Đọng lại trong tôi lắm nỗi niềm

Nhà thờ Lạc Đạo nơi hò hẹn
Mình vẫn thành tâm đến nguyện cầu
Vi vu rặng liễu bên đường nhỏ
Chúa biết lòng ta luôn có nhau

Cuộc sống đơn sơ mà thắm thiết
Lòng người tình nhỏ sẽ gần nhau
Phú Trinh Đức Thắng hai mà một
Hòa Đa Phan Rí có xa đâu

Bởi thế nên tình em với tôi
Dẫu rằng xa cách muôn trùng xa
Vẫn như gần gũi trong gang tấc
Dù chỉ là trong giấc mộng thôi

Nay giạt trôi bon chen xứ người
Nặng trĩu bao nhiêu nỗi đắng cay
Đời dẫu có dư mà vẫn thiếu
Thiếu tình ấm lạnh thiếu bàn tay

Thôi nhé người em Phan Thiết ơi
Tình xưa nay đã cách xa rồi
Còn chăng nghĩa cũ tôi gìn giữ
Một thoáng bâng khuâng người đến người…
TRẦN PHỤNG ĐÌNH
 
            Cứ mổi lần nghĩ đến CD Hẹn Về Phan Thiết tôi lại nhớ đến người
bạn vong niên của tôi, anh Trần Phụng Đình. Như câu Thơ anh viết “ một
thoáng bâng khuâng người đến người ” trong bài thơ Một Thoáng Bâng
Khuâng mà nhạc sĩ Võ Tá Hân đã phổ nhạc. Ngày đó, trong Thơ, anh bâng
khuâng một thoáng nhớ về người em Phan Thiết của anh.
Nay, anh không còn trên cõi đời này nữa, đừng nói chi một thoáng bâng khuâng mà cả một nỗi bâng khuâng cũng theo về cát bụi như thân xác anh đã gởi về cát bụi…
Chỉ còn tôi, còn đây, một thoáng bâng khuâng gởi đến anh, người anh và cũng là người bạn.
Thiệt lòng tôi không chỉ là một thoáng bâng khuâng mà rất nhớ anh, ngày đó…
Cứ mổi lần vào quán Bolsa (ở San Diego không phải ở Santa Ana) tôi lại nhớ đến anh, nhớ tô phở gà đặc biệt anh kêu riêng cho tôi không phải vì tôi thích mà vì anh là người rất sành các món ăn ngon. Vào những quán khác, anh vẫn cứ tự nhiên chọn cho tôi những món khác. Mổi quán mổi món và món nào anh chọn cũng rất ngon. Chúng tôi thường vào quán Bolsa vì khung cảnh ấm cúng vì anh còn giao báo và lấy quảng cáo cho tuần báo Chí Linh.
Cứ mổi lần lái xe qua những con đường ở Mira Mesa qua những con đường ở El Cajon tôi lại nhớ đến anh.
Ngày ra mắt tuyển tập “Rong Chơi Cõi Vô Thường” của anh Phan Bái (bút hiệu Uyên Nguyên (khi viết văn làm thơ) và Nguyên Phan (khi viết nhạc) tôi gặp lại nhạc sĩ Võ Tá Hân. Anh Hân có một thời chan chung kỷ niệm với tôi và với anh Trần Phụng Đình khi khởi đầu thực hiện CD Hẹn Về Phan Thiết.
Với nhan Hẹn Về Phan Thiết cứ ngỡ như CD nhắc nhớ  về Phan Thiết nhưng thật ra chỉ có hai bài nhắc nhớ về Phan Thiết thôi.
Hẹn Về Phan Thiết của tôi
Một Thoáng Bâng Khuâng của anh Trần Phụng Đình.
Tám bài còn lại là đề tài tự do, không mảy may hơi hướm gì về Phan Thiết.
Hóa ra là hẹn về Phan Thiết chỉ có anh Trần Phụng Đình, anh Võ Tá Hân và tôi.
Anh Võ Tá Hân thì có lý do biện minh vì anh là con rể của của cụ Ưng Du, nhà thầu kiến trúc, đã xây dựng công trình Tháp Nước, một biểu tượng đặc trưng của Phan Thiết.
Anh Trần Lai Nghi, gốc gác Cố Đô, nhưng gia đình vào an cư lạc nghiệp lưu niên Phan Thiết.
Còn tôi thì chỉ ngồi xe đò chạy qua Phan Thiết ngó quanh ngó quơ vùng biển cát và hít mùi mặn cá mực khô… 
 Bài Thơ này là do anh Đình “gà” cho tôi từng địa danh, từng món đặc sản, từng con đường góc phố. Và, cuối cùng, anh khuyên tôi nên, rất nên, chọn dung nhan một người em Phan Thiết nào đó để thêm phần thi vị hóa cuộc tình xa hẹn trở về. Tôi nghe lời anh. Như nếu tôi có trở về Phan Thiết chắc chắn bơ vơ (có quen biết em nào đâu) và lạc đường (có ở lâu gắn bó đâu) !!!.
Hân từ Tân gia ba thường gọi điện về nói anh nên sửa đoạn này, đổi địa danh này, thêm món đặc sản này, xin cho thêm mấy chữ tình lãng mạn một chút xíu, chút xíu.
Hai người bạn Phan Thiết dắt tôi đi về Phan Thiết !.
Anh Trần Phụng Đình thì dắt tôi về nhiều hơn.
Tôi quen và biết anh khởi từ cái duyên văn nghệ rồi dần đến chỗ thân tình. Anh coi tôi như là người em trong dòng đời lưu lạc xứ người nhưng lại là người bạn trong thơ văn. Anh thường nói, là người bạn nhỏ trong lãnh vực thơ văn, chú đừng ái ngại.
Tôi biết anh rất nặng tình yêu với Phan Thiết. Còn tôi, người em anh trong dòng đời người bạn nhỏ (hay trẻ) của anh trong thơ văn, cũng chỉ là người xin được chia xẻ cùng anh tình yêu thương đất-biển-con người Phan Thiết thôi.
CD Hẹn Về Phan Thiết do anh mà có. Là của anh đó, anh Trần Phụng Đình !!!
Hiên Trăng, tháng 09/2014
 
 

tháng 9 22, 2014

HẸN VỀ PHAN THIẾT- Nhạc Võ Tá Hân - Thơ Trần Huy Sao



gởi Võ Tá Hân
 
             Hai anh em mình, lâu quá rồi, nay lại gặp nhau trong chiều ra mắt tuyển tập thơ văn nhạc Rong Chơi Cõi Vô Thường của anh Uyên Nguyên Nguyên Phan.
             Gặp nhau, rất mừng cho nhau, vì còn đang ở cõi đời thường, chưa, và hi vọng còn lâu, mới rong chơi cõi vô thường. Có thân mẫu của Hân, bác Võ Sum.  Có em gái của Hân, nhà thơ Mỹ Ngọc [ cô của Mỹ Ngọc là Minh Đức Hoài Trinh, Linh Bảo vừa làm thơ và viết văn. Mỹ Ngọc chỉ Thơ, Võ Tá Hân chỉ Nhạc ].
              Chuyện trò không dứt sau bao nhiêu năm rồi, gặp nhau.
              Hân nói còn nợ tôi bài thơ “So Đũa” đã phổ nhạc rồi mà chưa vào CD.
              Đòi tôi, trả lại nợ là một bài Thơ viết về trường Trưng Vương ( hay Gia Long cũng được nhưng mà Trưng Vương thì ngẫu hứng hơn ) để Hân phổ nhạc.
              Muốn hỏi chắc là Châu, bạn đời của Hân, e là có một thời Trưng Vương mà không tiện hỏi vì có thể không chừng còn có, ai đó,  tà áo (ai đó) bay vương vấn một thuở…”em tan trường về đường mưa nho nhỏ”. Hỏi chi cho thêm vướng bận câu trả lời, trả vốn. Nhiều khi bỏ vốn lấy lời. Nhiều khi lấy lời bỏ vốn. Nhiều khi huề vốn không lời.
              Riêng tôi thì không vốn, cũng không lời bởi tôi đâu có vướng mắc Trưng Vương với Gia Long. Tôi chỉ “ em tan trường về đường mưa nho nhỏ” với Bùi thị Xuân Đà Lạt và, Trường Nữ Học Nha Trang. Nếu như em tan trường về trời không mưa to mưa nhỏ thì có con đường Đà Lạt mù sương lảng đãng hay con đường Nha Trang vàng lá me rơi…
              Nhưng thôi, gặp lại sau nhiều năm là vui rồi. Nợ nần thơ nhạc cứ lần hồi trả góp.
              Hân ngó ngoài thì mô phạm nề nếp nhưng mà bên trong ngó bộ cũng loạn lạc sứ quân. Vẻ dáng nghệ sĩ được phủ lớp đất phù sa do công việc nặng nề khuôn thức. Chỉ khi ngồi lại với nhau trong mổi dịp nghỉ Hè thường niên về thăm Ba Mẹ ở thành phố San Diego thì dòng chảy thời gian, dẫu ngắn, trôi tuột lớp phù sa, trả Hân về lại dáng dấp phong độ của người nghệ sĩ.
              Ngày đó, mổi dịp Hè là mổi dịp gặp nhau. Gặp nhau thì bên nhạc bên thơ thiệt là tâm đắc.
              Hân có cái hay là viết nhạc rất mau tôi thiệt không ngờ.
              Tôi còn nhớ, ngày đó là buổi chiều, đưa bài Thơ “So Đủa” vừa mới ráo mực cho Hân đọc. Thấy Hân, sau khi đọc xong, lẳng lặng lên lầu khoảng thời gian đâu chừng mươi phút. Thấy Hân, lẳng lặng xuống lầu, ngồi vào piano. Đôi bàn tay lướt nhẹ, đôi mắt lim dim, âm thanh thánh thót tràn ngập căn phòng. Tiếng nhạc dứt, Hân quay lại hỏi “ Anh thấy sao ?”. Tôi ngần ngừ bối rối, Hân cười “ Thôi, để tôi hát theo nhịp đàn cho anh nghe”.
              Vậy là tôi đã…thấy. Bài nhạc phổ này tôi rất ưng.
              Rồi tới bài Thơ “ Ngàn Dặm Biệt Ly” viết về Mẹ tôi đưa Hân đọc. Thoáng trầm ngâm một đỗi rồi lên lầu, xuống lầu, ngồi vào đàn. Cũng hỏi và cũng hát cho tôi nghe.
               Hân nói, thường thì không dễ dàng như vậy đâu. Chỉ những bài đọc qua thấy rung động. Như bài thơ Rất Huế của Huỳnh văn Dung, bài Sài Gòn Niềm Thương Nỗi Nhớ của Trần Ngọc, bài Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười của Trần Trung Đạo, bài Một Thoáng Bâng Khuâng của Trần Phụng Đình…
               Đặc biệt bài Thơ vỏn vẹn bốn câu của Đỗ Nghê :
Con cài bông hoa trắng
Dành cho Mẹ đóa hồng
Mẹ nhớ gài lên ngực
Ngoại chờ bên kia sông…
chỉ bốn câu thôi mà Hân đã phổ thành một bài nhạc chủ đề về Mẹ.
              Nhắc lại chuyện hồi xưa đó cho một lần tình cờ gặp lại. Hân nói bài “ So Đũa” đã hòa âm nhưng chưa vào CD. Bài Ngàn Dặm Biệt Ly đã đưa vào CD “ Những Ngày Bên Mẹ”. Tôi có nhận được CD này với đề tặng.

Rong Chơi Cõi Vô Thường

              THS - Võ Tá Hân
 
 
              Kính thưa toàn thể quý vị
              Trước tiên, tôi rất lấy làm vinh hạnh vì được có dịp quý hiếm gặp quý vị, hôm nay, trong hội trường này và được, chia sẻ cùng quý vị niềm vui buổi ra mắt tuyển tập thơ-văn-nhạc với nhan đề là “ Rong Chơi Cõi Vô Thường” của một tác giả, rất là đặc biệt.
              Điều đặc biệt, trước tiên, tôi muốn được nhấn mạnh là tôi cũng như toàn thể quý vị, chúng ta, hiện giờ đang vẫn còn rong chơi trong cõi vô thường !. 
              Nhưng xin có điều cảm nhận riêng tư đối với tác giả của tác phẩm “Rong Chơi Cõi Vô Thường” ra mắt ngày hôm nay. Ông quả là có nét đặc thù riêng biệt. Nói chung chung , là đặc biệt,  hay nói nôm na dễ hiểu là có một nét riêng.
              Đặc biệt như thế nào, nét riêng như thế nào, tôi xin được trình bày gốc ngọn, như thế này :
              Trong cõi đời thường, tác giả của tuyển tập thơ-văn-nhạc “Rong Chơi Cõi Vô Thường” là ông Phan Bái.
              Trong cõi văn, thơ tác giả là Uyên Nguyên
              Trong cõi nhạc, tác giả là Nguyên Phan.
thật là đáng ngưỡng mộ, ngưỡng mộ vô cùng.
              Bởi trong cõi vô thường mà tôi cùng quý vị đang rong chơi không phải dễ dàng thoải mái như là một cuộc rong chơi nhàn tản mà còn phải đối đầu với bao nhiêu là vấn nạn bủa vây cần phải vượt qua để có sức mà rong, có điều kiện để chơi.Trong cuộc rong chơi cõi vô thường có người đã bỏ cuộc giữa chừng có người đang, không phải rong chơi, mà đang rong ruổi…
              Riêng tác giả Uyên Nguyên- Nguyên Phan thì đặc biệt, vẫn còn nơi chốn rong chơi thoải mái, trong cõi vô thường.
              Điều đó không phải dễ dàng gì đâu, thưa quý vị.
              Phải là người có nhiều tài năng mới sắp xếp nhịp nhàng hòa điệu những bước rong-chơi-trong-cõi-riêng của mình, khi, đang còn rong chơi trong cõi vô thường.
              Như qúy vị cũng thấy đó…
              Ông Uyên Nguyên đi vào cõi Thơ, là cõi rong chơi riêng.
              Cũng là ông, ông Uyên Nguyên, bước vào cõi Văn, là cõi rong chơi riêng.
              Rồi tới ông Nguyên Phan , ghé vào cõi nhạc, cũng là cõi rong chơi riêng.
ba cuộc rong chơi riêng hòa nhập, trang trải suốt cuộc hành trình rong chơi trong cõi vô thường. Điều đó khó và hiếm không phải ai cũng làm được nếu không là người có tài năng, đa năng.
              Nhà thơ Uyên Nguyên, nhà văn Uyên Nguyên, nhạc sĩ Nguyên Phan, anh Phan Bái, bạn tôi, đã làm được.
              Kính thưa quý vị,
              Hôm nay, tôi có vinh dự được ông mời vào cuộc rong chơi trong cõi Thơ.
              Chỉ là trong cõi Thơ thôi. Rong chơi cõi Văn thì có nhà văn Phạm Hồng Ân. Rong chơi cõi nhạc thì có nhạc sĩ Võ Vĩnh Thuận. Ông tác giả cũng có lời dặn riêng là chỉ được rong chơi trong khoảng thời gian mười phút.
              Thật ra, điều đó không có gì trở ngại, bởi vì , thưa quý vị, cảm nhận của người thơ về một người thơ thì rất là nhạy bén..
Đời buồn như chiếc lá
Rụng rơi ngoài song cửa
Góc đời hoài trống vắng
Nhịp gõ sầu mông mênhvậy thôi, vậy là đã nắm bắt được những bước chân hụt hẫng nỗi buồn trong dòng đời và trong cõi Thơ ông…
Đóm lửa đời hiu quạnh
Từng góc phố ngả nghiêng
Xôn xao vùng trời lạ
Dấu yêu xa một thời
lại cũng đủ khẳng định một điều : thơ ông mang sắc thái của mùa Thu, mang âm điệu  nhẹ nhàng khe khẽ của chiếc lá vàng rơi. Man mác trong Thơ những dòng hoài niệm đến xót lòng
Chỉ còn lại mưa bay trên lối cũ
Không còn gì ngoài chiếc bóng cô đơn
Không còn gì ngoài buổi chiều loang nắng
Lá rụng rơi thầm lặng ngoài hiên
vậy đó, thưa quý vị. Chỉ qua ba-mươi-mốt bài Thơ ngắn dài vỏn vẹn 19 trang trong số 535 trang của tuyển tập cũng đã đủ nói lên tâm trạng u uất của một tâm hồn vì cuộc tang thương dâu bể vật đổi sao dời mà phải đành bỏ lại bao nhiêu là kỷ niệm gắn bó về một nơi, một chốn, một thời nương náu.
              Nay đã đi xa rồi !. Đã mất rồi !. Chỉ còn là hoài niệm dàn trải trong Thơ
Quê tôi đó có những chiều êm ả
Tiếng mục đồng giục dã gọi trâu về
Tiếng chuông chùa thánh thót chiều quê
Nghe trong gió mùa hương Cau man mát…
không, thưa quý vị, không chỉ là mùa hương Cau man mát đâu mà lòng người cũng man mát một mùa hương Cau…cố quận…
              Kính thưa quý vị,
              Mười phút, chỉ là mười phút, đi vào cõi thơ Uyên Nguyên mà sao tôi thấy như dặm ngàn bương chải để tôi phải hối hả tìm về hoài niệm. Vì, như quý vị cũng biết, ai mà chẳng có một thời để nhớ dù chỉ một thời thôi, cũng đủ để vui, buồn, ngậm ngùi, bâng khuâng, sầu lắng…
              Cuối cùng, xin mạn phép quý vị cho tôi đọc thêm hai câu thơ của nhà thơ Uyên Nguyên mà  tôi rất lấy làm tâm đắc :
Tôi về đối bóng nương đêm
Bâng khuâng nghe lá bên thềm nhẹ rơi…
              Bóng đó hình đó. Ngày vừa qua đó. Đêm vừa đến đó. Bởi lá còn xanh nên lá chưa rụng đó. Vì lá úa vàng nên lá vừa rụng đó.Tất cả cũng chỉ là thực, ảo trong cõi vô thường…
              Riêng, còn lại cái bình thường, rất nên và phải nên bình thường của ngày hôm nay trong hội trường này là tôi xin được chấm dứt mười phút nơi đây để nhường mười phút nơi sau cho anh bạn của tôi, nhà văn Phạm Hồng Ân, đi vào cõi văn của nhà văn Uyên Nguyên.
              Xin chân thành cảm ơn quý vị đã lắng nghe.