tháng 1 30, 2009

Hình Ảnh


khi con Én đã gọi bầy
em son phấn cũng gọi ngày vào Xuân
bỏ mùa Đông lại bâng khuâng
ôm chầm hương Tết cho gần nhau thêm
đường chiều trải nắng em về
gót hài thêu nhẹ bước thềm rêu phong
kể từ buổi lạc theo dòng
bể dâu, em, cứ một lòng theo tôi...
(Trần Huy Sao, Xuân Tình, thơ)

Hình Ảnh


con nhớ bên trời Xuân có Huế
có sông Hương thương nhịp Trường Tiền
có núi Ngự của hồn trăm năm cũ
dõi hồi chuông Thiên Mụ gọi chiều....
(Trần Huy Sao,Huế Mùa Xuân và Mạ,Em ơi, thơ)

EM VỀ THƠM LỰNG MÙI HƯƠNG PHẤN


gởi Đạt còn ở quê nhà

năm nay mùa Xuân em có về
Mạ nhắn người tìm anh rất vội
ở vùng kinh tế trời mau tối
anh thắp đèn lên đối bóng mình
bóng của mười năm xa phố thị
mười năm biền biệt buổi em đi
rừng Ngo đã bao mùa thay lá
em có quê nhà để nhớ không ?
anh có tình em vẫn nhớ mong
mười năm ! Ðủ nhạt màu nương rẫy
đủ để vờ quên nơi chốn xưa
em về thơm lựng mùi hương phấn
Mạ nhắn chi cho nát cõi lòng...

nhớ thuở em về qua chợ Xóm
gió chiều thoảng nhẹ mùi hương Chanh
cuối Chạp nên chi trời se lạnh
tóc em phủ ấm đôi vai gầy
mai sẽ qua Xuân đàn Én lượn
anh cũng lượn vòng qua nhà em
anh sẽ tìm ra những lối quen
muốn dắt em đi về kỷ niệm


Mạ nói mười năm anh đi biệt
vậy là mười năm em viễn phương !
sắn khoai anh giữ lại trên nương
khói thuốc buồn bay về Xóm cũ
mấy cốc rượu đời thôi chưa đủ
giận buồn con sáo đã sang sơng
nhớ buổi chiều em ở cuối Ðông
chưa kịp qua Xuân đàn Én lượn !

em về mười năm anh vẫn ở
một chỗ quê nhà rất vắng tanh
một chỗ đìu hiu chỉ có anh
không có em từ mười năm trước
không có em rồi sao có được
một thóang hương xưa để ấm lòng !
em có về nhưng anh thì không
cứ ở trên nương trời gió lộng
ngó xuống đời nhau vẫy biệt ly
mười năm con sáo đã sang sông
mười năm chưa cạn lòng sông rộng
đã hạn tình anh ngợp giữa dòng
em về thơm lựng mùi hương phấn
Mạ nhắn chi cho nát cõi lòng !...

Hình Ảnh


Khi em về thấy mưa giăng Vỹ Dạ
Ngó bên tê Cồn Hến lòng ngẩn ngơ
Nước sông Hương tràn mé đôi bờ
Thương mấy nhịp Trường Tiền sóng nước...
(Trần Huy Sao, Mưa Huế, thơ)

Hình Ảnh


Tôi đi lâu nên ngó chưa ra
Huế còn Huế như hồi xưa ngái !
Có thân tình như buổi đi xa
Buổi quày lại vẫn chưa hề lạ...
( Trần Huy Sao,Gởi Người Ở Huế, thơ)

NGƯỜI CÙNG XÓM ÐÌNH


Viết lại những hình ảnh Xuân xưa nơi Xóm nhỏ mà không biết bây giờ những người xưa đã đi đâu, về đâu….Có lần nào rồi sẽ gặp lại nhau không, những người cùng chung Xóm Đình…


Chị Hẹ cầm tay tôi, nài nỉ :
- Em tới đó, gặp riêng anh Tấn...
Chị nhìn quanh quất rồi ghé sát tai tôi, nói nhỏ :
- ...nói với anh Tấn là ra chỗ cũ, chị muốn gặp.
Thấy tôi còn ngần ngừ chưa hiểu, chị dặn thêm :
- Thì cứ nói ra chỗ cũ là anh biết liền. Nói chừng nớ thôi nghe. Mà nhớ đừng có cho ai biết là chị nhắn.
Tôi nhìn chị, thắc mắc :
- Nhưng mà anh Tấn là ai, em có biết đâu !
Chị Hẹ ngẩn người một thoáng rồi nhìn tôi cười :
- Ừ hỉ? Chị quên. Là anh Bòi Anh đó. Em biết rõ quá mà !
Tôi không dấu nổi vẻ ngạc nhiên :
- Ủa, anh Bòi Anh là anh Tấn đó hả ? Tên chi mà lạ hoắc, ai biết.
- Thì tên trong giấy tờ khai sanh đó. Mai mốt anh “ ra ràng” rồi, bộ cứ gọi tên cũ hoài, dị chết. Như chị đây cũng rứa. Chị...mà thôi, em đi đi. Trăng lên cao rồi, sợ khuya. Nhớ là đừng nói với ai nghe, giú kín cho chị.
Rồi thấy tôi còn đứng tần ngần, chị hiểu ý, dỗ dành :
- Mai ra quán, chị để dành cho hai tán đường.
Tôi kèo nài :
- Bữa trước hai tán, bây chừ phải thêm một nữa là ba. Mà đường đen hay đường vàng đây chị ?
Chị Hẹ “xì” một tiếng nhẹ, đẩy vai tôi, hối thúc :
- Cái thằng ni ! Thôi, đi đi cho mau. Ba bốn chi cũng được. Ðừơng vàng đó, chịu chưa ?
Tôi cười, gật đầu rồi chạy vòng qua đầu con dốc.
Trăng sáng vằng vặc, trải ánh vàng trên con đường xóm nhỏ. Cảnh vật thanh vắng, nghe rõ tiếng dế kêu trăng hai bên đường. Tôi nhắm hướng có ánh đèn manchon từ xóm dưới. Anh Bòi Anh ( í quên, anh Tấn) đang sinh hoạt thanh niên thanh nữ ở đó. Cả tuần nay, mấy anh mấy chị lo tập dượt văn nghệ ráo riết để chuẩn bị tổ chức buổi lễ đưa tiễn đám thanh niên trong xóm lên đường thi hành Quân dịch. Làng trên xóm dưới, đi đâu cũng nghe bàn tán chuyện tòng quân, nhất là mấy anh thanh niên vào độ tuổi. Vừa rồi chị Hẹ nói anh Bòi Anh ( í, lại quên nữa, anh Tấn) “ra ràng” là vậy đó. Tại vì Ba của chị chuyên nuôi bồ câu. Ông có tới bốn cái chuồng cao nghệu đặt ở bốn góc nhà. Chuồng nào cũng được sơn phết màu mè sặc sở. Bồ cầu bay lượn từng đàn tấp nập suốt ngày. Ông thích thú và tự hào có đàn bồ câu mà theo Ông thường nói là đông đảo không chỗ nào sánh bằng. Một số đông người trong Xóm cũng lấy làm thích thú lắm. Nhưng mà không đủ can đảm để tự hào vì lẽ rình bắn bồ câu ăn thịt thì tự hào cái nỗi gì ! Chị Hẹ bắt chước Cha, nói gì cũng nhớ tới mấy con bồ câu. Nhiều chữ chị nói nghe lạ tai nhưng mà cũng có lý. Chim đủ lông đủ cánh rời khỏi tổ tự kiếm ăn gọi là ra ràng. Anh Tấn bây giờ cũng đã đủ sức lớn khôn để rời bỏ cái xóm nhỏ mà đi thì cũng giống như con chim bồ câu ra ràng chớ khác gì!
Anh vốn không phải là người trong Xóm. Trước sau anh cũng chỉ là người ăn nhờ ở đậu. Tôi nghe những người lớn kể lại, anh được chú Hai Mộc đem về nhà khi anh còn rất nhỏ, đâu khoảng một hai tháng tuổi gì đó. Chú giải thích với mọi người là lượm được anh bên cạnh đường khi chú trở về sau một chuyến làm ăn xa. Chú không đành tâm đi thẳng nên đem anh về nhà. Lời giải thích còn có nhiều nghi vấn, nhất là đối với thím Hai, người vợ đanh đá chua ngoa của chú. Trong một khoảng thời gian khá lâu, thím làm hành làm tỏi chú đủ điều. Chú chịu không nổi nên có ý định đem thằng bé gởi cho Bà Sơ nuôi nấng giùm. Một buổi sáng, chú bọc thằng nhỏ trong chiếc áo len, quày quả ra đi. Vừa đi vừa khóc. Lên tới ngọn đồi nơi có ngôi nhà thờ lớn thì thím Hai rượt theo níu lại. Hai vợ chồng giằng co thằng bé một đỗi lâu. Cuối cùng chú đành để cho thím đem nó về. Từ đó, chuyện xưa thím không hề nhắc tới.
Anh Tấn ở với chú thím cho đến mười lăm tuổi thì chú, rồi sau đó tới thím, lần lượt qua đời. Anh trở thành đứa con chung của Xóm. Nay nhà này, mai nhà kia quanh năm suốt tháng. Miếng cơm đổi lấy từ những công việc nặng nhọc của một người ở mướn làm thuê. Như loài cỏ hoang trên đồi Trọc rừng Ngo, tự định đoạt lấy đời sống của mình.. Tính tình anh vui vẻ hoạt bát. Hình dong coi cũng ưa nhìn. Chị Hẹ ngó bộ ưa nhìn anh nhất. Không chừng anh chị có tình ý với nhau cũng tựa như con chim bồ câu trống với con chim bồ câu mái “gù” nhau. Tôi bật cười với sự so sánh ngộ nghĩnh này, suýt nữa táng đầu vô cái cổng Ðình.
Anh Tấn đang bận sắm vai diễn trong một vở kịch, tôi phải đứng chờ. Vở diễn cảnh người con trai lên đường thi hành Quân dịch, người con gái bịn rịn tiễn bước chân đi. Vai nữ là chị Bưởi. Hai người đang diễn cảnh bịn rịn cầm tay nhau mà thề non hẹn biển. Có anh Trai đứng phía sau nhắc tuồng. Những câu hẹn thề mùi mẫn với lại cái cảnh cầm tay nhau thân mật, tôi thấy nó ...động trời quá ! Chuyện trai gái của hai người sao lại đem bêu riếu cho mọi người cùng biết ?. Chị Bưởi lại lớn hơn anh Tấn 5, 6 tuổi, đã có chồng con. Chồng chị là anh Thuận thợ mộc. Lấy nhau do hẹn ước của hai gia đình từ khi anh chị còn nhỏ. Lời thề hẹn đá vàng không được thốt ra từ tình yêu trai gái mà từ tách trà chung rượu bằng hữu chi giao. Chị ngồi xuống nơi cha mẹ chỉ với tấm lòng hiếu thảo chớ thiệt tình trái tim chị chưa một lần biết rung động trước tình yêu. Thời con gái chưa một lần e lệ cúi đầu che dấu nỗi thẹn thùng từ một ánh nhìn của người khác phái. Rồi những đứa con ra đời như là chất keo gắn chặt thêm tình nghĩa theo năm tháng dần qua, kéo theo tuổi đời an phận.
Chị tham gia đoàn văn nghệ do lời tha thiết yêu cầu của anh Trai. Ðiểm chính là không có cô gái nào trong xóm chịu đóng vai nữ trong vở kịch nòng cốt cho buổi lễ sắp được tổ chức nay mai. Vở diễn do anh Trai, trưởng đoàn thanh niên thanh nữ, tự soạn và tự đặt lời. Công khó của anh đã thức liền mấy đêm đỏ lừ con mắt để “nặn” cho ra chữ, sắp xếp lớp lang cho thiệt mùi mẫn với lời thề non hẹn biển hợp với cảnh tiễn đưa. Nhất định là phải có chiếc khăn tay vẫy vẫy, có lệ rơi, có cầm tay bịn rịn không rời...Vậy mà, không có ai chịu nhập vai hết. Mấy chị thanh nữ vừa mới nghe anh Trai diễn tả sơ qua đã đỏ mặt ngượng ngùng, lắc đầu le lưỡi. Miệng đâu mà nói những lời ngọt ngào tình tứ như vậy. Lại còn cái cảnh nắm tay bịn rịn thì thiệt là muốn chọc cho thiên hạ đàm tiếu, dị nghị. Ðến như đã là vợ chồng rồi mà khi ra đường cứ việc chồng đi trước, vợ theo sau. Ði như kiểu nhà binh, hàng một. Ðừng nói chi tới mấy bà trong Xóm, chụp được cơ hội này thì đố có tha. Ðầu trên xóm dưới, tụm năm tụm bảy nói cho mà nhức óc. Cho nên mấy chị, mặc dầu trong bụng cũng ưng, nhưng mà đẩy không nổi bức tường thành kiên cố của thói cũ lề xưa...
Anh Trai bực mình lắm nhưng anh quyết định không chịu thua.. Là người đã từng có một thời gian lưu lạc kiếm sống qua những vùng đất xa lạ, tầm nhìn của anh vượt quá lũy tre làng. Khi mệt mỏi trở về, anh đã đem về bao nhiêu điều mới lạ. Ðiều mới lạ trước tiên là mái tóc anh lúc nào cũng láng mướt, chải tém đít vịt gọn gàng. Cái lược nhựa lúc nào cũng giắt ở túi áo trước. Chỉ chừng đó thôi mà ai cũng nhìn anh lạ lẫm. Lời khen tiếng chê dồn đống, anh vẫn tỉnh bơ. Riết rồi thấy hay hay, đám thanh niên lần hồi bắt chước. Mấy cái đầu trọc, đấu húi hai phân lần hồi biến dạng thành đầu tóc đen dài, láng coóng, tém đít vịt y theo một kiểu. Chiều chiều, thấy “ mấy con vịt” lạc đàn, đi lên đi xuống con đường chính của xóm nhỏ, mắt dáo dác nhìn quanh...
Nói tóm lại, anh Trai là người của thị thành. Chị Bưởi là người phụ nữ, tuy là hương-đồng-cỏ-nội, nhưng có đầu óc cách tân. Thêm anh Tấn là người thường khi trở chứng ngang tàng bướng bỉnh, không chịu trói buộc bởi lề thói khắt khe ngàn đời không thay đổi. Ba người gặp nhau thiệt là tâm đắc. Có anh Trai nhắc tuồng, chị Bưởi và anh Tấn nhập vai mùi mẫn như thiệt. Thiệt đến nỗi mà tôi cứ đứng nhìn mê mẩn. Cho đến lúc anh Tấn làm điệu bộ bước lên xe (chiếc xe tưởng tượng). Chị Bưởi đưa chiếc khăn tay lên vẫy vẫy tôi mới giật mình hoảng hốt. Cứ tưởng anh sẽ đi, tôi vội vàng chạy đến nắm tay anh giật giật :
- Khoan, khoan đi đã anh ơi !
Anh Tấn khựng người, ngạc nhiên nhìn tôi trong khi chị Bưởi với anh Trai phá lên cười ngặt ngoẻo. Tôi ngượng ngùng đỏ mặt. Anh Tấn cũng cười, đẩy nhẹ tôi một cái :
- Cái thằng này ! Ở đâu mà xuất hiện kịp thời vậy ?
Rồi anh ghé sát tai tôi, thì thầm :
- Sao ?. Có người nhắn nhe gì phải không ?
Tôi nhớ mấy tán đường. Tôi nhớ lời chị Hẹ dặn phải giữ kín cho chị. Kéo anh ra góc sân, tôi nói nhỏ :
- Là chị Hẹ nhắn anh ra chỗ cũ, chị muốn gặp.
Thấy anh ngần ngừ rồi lầm bầm :” Lại làm hành làm tỏi gì nữa đây, trời !...”.Tôi níu tay anh, giục :
- Anh phải ra đó nghe. Nếu như anh không ra là em mất ba tán đường !...
Anh Tấn im lặng. Không nói gì.
Ðêm đó, anh và anh Trai đưa chị Bưởi về dưới đường trăng thanh vắng. Tôi lẽo đẽo theo sau. Khi chia tay hai người ở hai con dốc, anh quày quả một mình trở về nhà. Vậy là anh không đến nơi chị Hẹ nhắn. Tôi ngồi sụp xuống vạt cỏ ướt sương đêm, ngẩn ngơ tiếc nuối ba tán đường đã vuột khỏi tầm tay. Và tôi khóc, ngon lành...

Sân đình đêm nay như ngày vô hội kỳ yên. Bà con làng trên xóm dưới lũ lượt kéo về tụ tập trước cái sân khấu lộ thiên. Tiếng trống giòn giả làm nôn nao cả lòng người. Ðêm văn nghệ tiễn đưa đám thanh niên hai xóm Ða Cát và Ða Trung lên đường thi hành Quân dịch vinh dự đón tiếp các vị chức sắc từ trên Thị xã xuống. Ðoàn văn nghệ của xóm Ða Trung (là xóm trên) cùng với xóm Ða Cát (là xóm dưới) đang bận bịu tới tấp ở hậu trường. Tiếng là văn nghệ giúp vui nhưng bên trong vẫn có sự ngấm ngầm ganh đua quyết liệt. Xóm nào cũng muốn cho đội văn nghệ của mình vượt trội. Bởi vậy, dưới hàng khán giả, vô hình trung đã có sự phân chia hai nhóm rõ rệt. Tiếng la ó, vỗ tay ủng hộ “gà nhà” vang trời dậy đất. Khí thế sôi nổi làm cho mấy diễn viên trong hai dội văn nghệ lên tinh thần. Thấy anh Trai lúc nào cũng cười nói, đi lên đi xuống, chạy qua chạy lại dặn dò phân công từng tiết mục cho từng người. Anh rất tin tưởng vào vở kịch nòng cốt của chương trình. Nhất định sẽ làm cho mọi người rơi lệ. Sẽ làm cho mấy anh con trai tới độ tuổi tự hào vì được là người lên đường. Sẽ làm cho mấy cô có người yêu (hay không có người yêu, cũng vậy) cảm thấy mình được chia phần vinh dự có người yêu bỏ cày bỏ cuốc, đáp lời sông núi, mà xông pha giữa lằn tên mũi đạn sa trường. Dám không chừng mấy tay trốn Quân dịch cũng phải hết sức hối hận vì đã lỡ dại dột làm cái chuyện đáng ra không nên làm.
Chú Vạy trưởng Xóm, người to lớn dềnh dàng, chống cây ba toong đi lên đi xuống cười nói hễ hả. Gặp anh Trai, chú cười hết cỡ, nói “Très bien”...”Très bien”...
Sau màn vũ khúc “Giã Gạo Ðêm Trăng”, tiếng trống bất ngờ nổi lên dồn dập. Anh Trai lẹ làng nhảy lên sân khấu, điệu bộ màu mè chụp lấy cái micro giới thiệu vở kịch then chốt của đêm văn nghệ. Vì đã có sự dặn dò xếp đặt trước nên tiếng vỗ tay nổi lên đồng loạt, tiếng la hét muốn khản cổ của đám khán giả gà nhà làm rung động cả một góc trời. Ðèn sân khấu được mấy tay chạy màn cố tình che lại cho trở nên mờ mờ ảo ảo. Có tiếng hát cũng cố tình ghìm giọng như từ xa vọng lại nghe như người nghẹt mũi :
“Vài hàng gởi anh trìu mến. Vừa rồi Làng có truyền tin. Nói rằng nước non đang mong. Ði Quân dịch là thương nòi giống...”. (*)
Tiếng hát nhỏ dần, nhỏ dần rồi lịm tắt. Ðèn lóe sáng. Từ hậu trường có chàng thanh niên xách chiếc va li thiếc bước ra. Ðám con nít tức thì la ré lên :” Anh Bòi anh. Anh Bòi anh đó, bây ơi !...”.Tiếng cười bỗng rộ lên đồng loạt làm anh Tấn (là anh Bòi anh đó) khựng lại, hơi bối rối. Cố giữ dáng điệu, anh bước ra vài bước, nhìn ngó bầu trời rồi làm vẻ mặt buồn ngoái lại phía sau. Ý là biểu lộ sự bịn rịn không rời nơi làng quê xóm cũ khi phải lên đường tòng quân. Vừa lúc đó, cũng từ phía hậu trường bên phải, một người thiếu nữ bước ra. Ðám con nít cùng ré lên : “Chị Bưởi. Chị Bưởi đó...” Không có tiếng cười, nhưng có tiếng anh Trai nhắc tuồng nghe rõ mồn một “ Chạy lên. Chạy lên. Kêu tên. Kêu tên “. Tức thì chị Bưởi sửa dáng, lấy đà lúp xúp chạy về phía người thanh niên đang ở tư thế dợm bước. Chị kêu lên : “Anh Tấn! Anh Tấn!”.Úi trời. Tiếng kêu cố tình hụt hơi đứt đoạn nghe thiệt khá não nùng. Có tiếng xì xầm ở dưới hàng khán giả rồi một khoảng thinh lặng kéo dài đờ đẫn khi hai người trao đổi với nhau những lời thề nguyền lâm ly bi đát. Ngay cả đám con nít cũng nín thở, trố mắt nhìn một màn diễn quá bất ngờ táo bạo chưa từng thấy. Không khí bỗng trầm lặng hẳn. Chỉ còn nghe tiếng, khi thì nức nở bi thương, khi thì dịu dàng âu yếm của cặp trai gái trước giờ phút chia ly. Rõ ràng anh Tấn và chị Bưởi đã nhập vai thiệt là xuất thần. Anh Trai ngồi chùm hum dấu người ở góc hậu trường, ngạc nhiên đến độ ngẩn ngơ quên cả nhiệm vụ nhắc tuồng của mình. Ðám thiếu nữ không còn giữ gìn e lệ, cứ nhăn mặt nhíu mày lòng dạ trải dài xót xa quặn thắt theo từng cảnh diễn, từng lời nói của đôi nam nữ. Ðám thanh niên thì hả lòng hả dạ. Trời ơi là trời! Những lời nói yêu thương nhắn nhủ như rót mật vô lòng. Giá như bom đạn có cày bừa nát ngướu tấm thân cũng thấy không có gì là tiếc nuối.
Sân đình trở nên thinh lặng. Bao cặp mắt đổ dồn, theo dõi từng diễn tiến. Tôi đứng gần sân khấu, thấy chị Bưởi nước mắt đầm đìa. Chị khóc thiệt tình làm cho vai diễn càng thêm sống động. Tự nhiên, tôi cũng cảm thấy nghèn nghẹn. Nếu như hai người thương nhau mà phải xa nhau, họ sẽ nói những lời buồn nẫu cả người như vậy hay sao ?. Nếu vậy thì xa nhau làm gì ! Thương nhau làm gì ! Mà chị Bưởi có thương anh Tấn thiệt không đó. Sao thấy chị khóc ngon khóc lành vậy chớ ! Không có ai trả lời giùm tôi. Mọi người đang say mê theo dõi. Trên sân khấu, anh Tấn quay người định bước lên xe(chiếc xe tượng trưng là chiếc ghế dài che phủ lá cây). Chị Bưởi vội chạy theo nắm lấy tay anh Tấn. Ðoạn này mùi mẫn nhất. Hai người nắm lấy tay nhau. Anh nhìn chị. Chị nhìn anh. Ðắm đuối...Ðắm đuối...
Bỗng nhiên, mọi người nghe một tiếng thét xé trời. Từ dưới sân đình, một bóng người nhảy chồm lên sân khấu, tay cầm khúc mía chạy ào tới chỗ anh Tấn và chị Bưởi. Tôi giật bắn người, kịp nhận ra là chị Hẹ. Vừa khi khúc mía nhắm ngay đầu anh Tấn vụt tới. Rất may là anh Tấn, khi nghe tiếng hét, giật mình làm chiếc ghế lật nghiêng hất anh ngã xuống. Cú đánh như trời giáng trượt qua đầu khi anh vừa ngã ngưã về phía sau. Chị Hẹ cũng mất đà ngã nhào theo. Hậu trường nhốn nháo, tiếng la hét ồn ào. Rồi thấy anh Tấn vụt chạy bương qua hàng rào nhà ông Thưởng, đuổi bén gót theo sau là chị Hẹ. Khúc mía đưa cao nhấp nhô theo đà nhún nhảy rồi mất mất hút vào khoảng tối mịt mù phía trước...
Sự việc xảy ra bất ngờ làm bà con bán tín bán nghi. Không lẽ vở diễn kết thúc như vậy sao ? Thấy chú Vạy chống cây ba toong chạy lên tìm anh Trai. Chú giận tím mặt, la lối om sòm :” Cái thằng trời đánh !.Kết cục như rứa là ý nghĩa gì đây ! Trời ơi mi giết tau rồi, Trai ơi!”. Anh Trai, cũng đang giận sôi lên, nói xẵng :” Trai gái với lại cục hòn chi đây chú! Cái con giặc cái đó tự nhiên ở đâu nhảy lên làm bể dĩa hết trơn “. Rồi anh day sang phía anh Rớt đang trố mắt nhìn, nạt lớn :” Nhìn cái gì nữa. Kéo màn. Kéo màn”.
Chỉ có mình tôi là hiểu thấu sự tình. Ăn đường của chị Hẹ nhiều lần quá mà, làm sao tôi không hiểu thấu cho được !
Rốt cục rồi mọi người cũng vỡ lẽ. Thì ra, nói theo kiểu chị Hẹ, là anh Tấn với chị “gù” nhau .
Chuyện xảy ra từ cái đêm văn nghệ đó là đề tài bàn tán xôn xao làng trên xóm dưới. Búa rìu dư luận theo nề nếp cổ xưa, đuổi xô chị Hẹ về phía cô đơn. Anh Tấn đã “ra ràng” rồi! Chỉ còn chị vẫn còn náu lại trong cái xóm nhỏ tựa cái chuồng bồ câu dần bạc màu sắc theo thời gian. Tội nghiệp. Mỗi lần ra đường, mọi người đều nhìn chị với ánh mắt khác lạ. Nhất là mấy bà ngồi lê đôi mách, họ thêu dệt về chị theo đà câu chuyện để mua vui trong giờ rảnh rỗi. Ðám trai làng e dè ra mặt. Chỉ còn có tôi. Nói cho đúng nghĩa hơn là những-tán-đường-của-chị còn có tôi. Rồi cũng phải nói thêm cho thật lòng, dù ăn miếng đường ngọt ngào thanh cảnh của chị nhưng sao tôi vẫn cảm thấy không gần gụi chị được như ngày nào. Cú đánh trời giáng của chị đã gây ấn tượng mạnh trong tôi. Nó chì chiết trầy trụa tình cảm của tôi về chị đến nỗi tôi đã mất dần cảm giác thèm vị ngọt ngào như tôi vẫn thèm. Và rồi, tôi dần xa chị hồi nào không hay. Mỗi lần có việc qua quán nhà chị, tôi cố tình rão bước. Ðôi lần bắt gặp ánh nhìn của chị, tôi cúi đầu lảng tránh.
Thời gian cứ lần lựa trôi qua. Hết hạn ba năm, chẳng thấy anh Tấn trở về như những chàng trai cùng xóm. Rồi đáo hạn kỳ lần nữa, thêm lần nữa, anh Tấn cũng biền biệt phương trời. Chị Hẹ vẫn ngồi nơi quán nhỏ mà lòng trải rộng cả phương trời. Chị gầy ốm, teo tóp rồi lạc tuổi thanh xuân. Nghe đâu trong thời gian qua cũng đã có nhiều đám gần xa mai mối, nhưng chị vẫn không chịu “ra ràng”. Chị như con chim vẫn ngày ngày giam mình trong cái chuồng chim bạc màu son để nhìn ngắm khoảng trời xanh vô tận, tìm kiếm một bóng chim quen.
Con chim lẻ bạn chắc là buồn. Chị Hẹ lẻ loi tình anh Tấn, chắc chị buồn thấm tận tim gan...
Chị Hẹ ơi ! Giờ đây em không còn trách chị như ngày xưa còn bé.
Sự đời vốn nhiều đa đoan. Sự tình cũng có nhiều cớ sự. Khi người ta yêu nhau thì chỉ thấy có mỗi người mình yêu. Và dễ thương (hay dễ ghét) hơn nữa, chỉ muốn người mình thương là của riêng mình.
Em cũng hiểu khúc mía chị dành riêng cho anh Tấn nó đầy đặn ngọt ngào tình yêu thương chớ đâu có phải hận thù. Giá như khúc mía được chia đôi cắn nửa thì tình tự biết bao nhiêu. Nhưng ác thay khúc mía lại làm nên cú đánh như trời giáng để cho anh Tấn hồn bất phụ thể mà lú lẫn cả đường về !. Khi yêu nhau người ta vẫn làm những điều khôn, điều dại cũng chỉ vì người mình thương.
Em cũng hiểu thấu nỗi buồn da diết qua tháng năm chị chờ đợi anh Tấn trở về...
Lý lẽ này tôi tìm kiếm được là lúc tôi lớn khôn. Biết soi gương làm dáng. Biết trái tim có hai dòng đập. Một cho nhịp sống đời thường. Và một cho nhịp slow, tango, bebop hay cha cha cha tùy thuộc hoàn toàn theo đối tượng mình thương.

Chiếc Honda vượt khỏi con đường đất đỏ hai bên là rừng cao su bạt ngàn, dừng lại ở đường quốc lộ. Anh Hường, phụ huynh của học trò tôi, vừa dựng xe vừa nói :
- Thôi, Thầy về ăn Tết vui vẻ nghe. Thầy quyết định về quê ăn Tết tụi tui cũng thấy mừng. Ở đây buồn lắm Thầy ơi !
Buồn hay vui, không phải là nguyên do để tôi đột ngột quyết định phải về nhà ăn Tết. Chỉ vì nhớ.
Tình cờ, sáng nay, khi vừa thức dậy nghe tiếng hát từ chiếc radio ở nhà bên cạnh :
“...Ðàn trẻ thơ ngây chờ mong anh trai. Sẽ mang về cho quần áo mới. Ba ngày Xuân đi khoe xóm làng...”. (**)
Lời hát làm cho tôi nhớ đến xót xa những ngày Tết quê nhà. Tôi nhớ những đêm cùng các em thức canh nồi bánh Tết, lòng nôn nao nghe tiếng pháo vọng xa trong màn đêm tĩnh mịch. Những ngày Tết rộn ràng xôn xao câu chúc tụng trên con đường xóm nhỏ dập dìu người qua kẻ lại. Tôi nhớ không khí ấm nồng của những ngày Xuân chan hòa tình làng nghĩa xóm.
Và tôi quyết định phải về, dù hôm nay đã là ngày 30 Tết.
Tốt nghiệp ra trường rồi thuyên chuyển về vùng đất mưa bùn nắng bụi, heo hút bạt ngàn rừng núi này. Ðây cũng là cái Tết đầu tiên xa nhà. Tôi muốn trải nếm cảm giác của lòng người xa xứ. Vậy mà, cuối cùng, vẫn không chịu được. Mới hay là nơi chôn-nhao-cắt-rún mãi mãi là nơi chốn phải quay về.
Có chuyến xe hàng ở đầu con dốc. Anh Hường mau mắn đưa tay vẫy chặn. Trong xe thưa thớt chỉ vài người khách, có lẽ cũng về quê ăn Tết muộn như tôi. Bác tài vừa sang số xe, vừa nói :
- Xe về tới Dục Mỹ thôi, thầy Hai. Tới đó, Thầy liệu đường mà bương tiếp...
Tôi không nói gì. Ðịnh bụng là đến Dục Mỹ sẽ đón xe về tới ngã ba Thành. Từ đó, đón tiếp xe lên Ðàlạt. Chậm lắm là khoảng 11 giờ đêm sẽ có mặt tại thành phố sương mù. Hy vọng còn kịp giờ đón Giao thừa.
Bắt đầu qua dèo M’Drăk, xe ngừng lại đón thêm một người khách. Anh ta vứt cái bao đồ khá lớn ở cuối xe rồi nhìn quanh tìm chỗ ngồi. Trong xe cũng còn quá nhiều chỗ trống. Anh đứng tần ngần một thoáng rồi đến ngồi bên cạnh tôi :
- Chào anh. Ngồi đây cho có bạn chuyện trò đường xa.
Tôi cười gật đầu chào xả giao
- Vâng, chào anh. Anh cũng về Dục Mỹ à ?
- Không, tôi chỉ đến Khánh Dương.
Rồi anh che tay, ngáp, ngon lành. Tôi lén nhìn anh, quan sát. Bộ râu quai nón rậm rì lốm đốm nhiều sợi bạc. Mái tóc lâu ngày không cắt tỉa phủ xuống quá gáy. Da mặt sạm đen vì nắng gió. Nhìn vẻ dáng thật phong trần. Tôi cứ ngờ ngợ như là đã gặp anh đâu đó một đôi lần. Tôi đem ý nghĩ này nói với anh. Anh cười, hàng răng trắng đều giữa hàm râu rậm :
- Vậy hả ?. Cũng có thể là đã gặp đâu đó. Tôi vẫn qua lại vùng này thường lắm
Qua lại thường ở vùng này thì chắc thế nào anh cũng đến Phước An, nơi tôi làm việc. Có thể là gặp anh một đôi lần nơi đó. Tôi hỏi :
- Nhưng có khi nào anh đến Phước An ?
- Có chứ, một đôi lần. Nhưng hơn năm nay, tôi không ghé. Chẳng có gì phải ghé.
Tôi ngạc nhiên :
- Có gì là có gì, anh ?
Anh lại cười :
- Thì đại khái là kim loại, đồng, thau, vàng, bạc, các loại đồ cổ. Mua bán có, trao đổi có. Nhưng tôi thường đến các buôn bản Thượng. Họ có những món đồ cổ, quý hiếm. Thuận thì trao vừa thì đổi, chẳng ai ép ai. Người Thượng họ thật thà chất phác, gần gụi họ mình cảm thấy cuộc đời phẳng lặng hơn. Anh thấy tôi đầu tóc râu ria giống họ không ? Cố tình đó.
Rồi anh huyên thuyên kể chuyện vui về việc mua bán trao đổi với người Thượng từ các buôn bản xa xôi hẻo lánh. Anh có lối kể chuyện thu hút người nghe và đặc biệt là không ngừng nghỉ. Một mẫu người vui tính và dễ thân thiện, tôi thầm nhận xét. Kể lể một thôi một hồi, bỗng anh khựng người nhìn tôi, cười :
- Thiệt là vô tâm. Nãy giờ ham chuyện quên hỏi chú em. Í, mà gọi chú em được chớ?. Ngó bộ dạng trẻ quá mà. Sao? Về quê ăn Tết hay là đang đi kiếm ăn đây ?
- Kiếm chác gì đâu anh ! Tôi làm việc ở vùng này. Về quê ăn Tết đó.
Anh cười, phụ họa :
- Thiệt là bươn chải đường xa, tới ba ngày Tết cũng kiếm đường về. Mà về đâu đây, chú em ?
Tôi đáp gọn :
- Ðàlạt
Anh “Hả” lên một tiếng, gương mặt có vẻ ngạc nhiên. Tôi vẫn vô tình :
- Anh lưu lạc nhiều nơi, chắc cũng có dịp về qua Ðàlạt.
Gương mặt anh trở nên tư lự. Anh khẽ thở dài :
- Ghé qua sao được. Có thời gian anh ở đó rồi. Mà không lâu.
Tôi cười vui vẻ :
- Vậy là gặp người cùng quê rồi. Anh ở vùng nào vậy ?
Anh im lặng, nhìn ra cửa xe, như đang suy nghĩ điều gì. Rồi anh thở dài :
- Ở không lâu mà đi xa cũng nhớ mới kỳ. Hồi đó anh ở vùng Trại Mát.
- Tôi thì ở số 4, là Xóm Ða Cát đó. Trại Mát nơi anh ở họ trồng rau nhiều lắm. Ðặc biệt, anh biết có gì không ? Ðá gà. Nhứt là mùa Tết , cá độ gà đá dữ dằn lắm. Ðể coi ,ở Xóm tôi cũng có nhiều tay mê đá gà nặng. Sống bằng nghề đó luôn. Có Ôn Tôn Lạc, có chú Cử, chú Phú xe Lam nè. Lớp sau này có anh Trai, anh Ðát con rể của ôn Cai Hoành…
Tôi đang ngập ngừng cố nhớ thêm vài tay mê đá gà nữa thì nghe anh nói, giọng có vẻ hốt hoảng :
- Aí chà, thôi chú em ngồi nghe. Anh xuống coi cái bao đồ không chừng mấy tay lơ xe moi móc...
Rồi không chờ tôi trả lời, anh hối hả đứng lên đi thẳng. Tôi mất hứng ngồi yên.
Khá lâu không thấy anh trở lại. Tôi ngoái nhìn, thấy anh ngồi khuất ở băng ghế cuối, đang loay hoay làm gì đó.
Xe chạy một đoạn dài, tôi vẫn có ý chờ anh trở lại để tiếp câu chuyện đang còn hứng thú. Vừa lúc đó nghe tiếng bác tài xế rổn rảng :
- Khánh Dương. Ai Khánh Dương chuẩn bị xuống nghe.
Xe bắt đầu hãm thắng, chậm dần. Tôi quay lại, cũng vừa lúc anh vội vàng đi lên.Bàn tay anh bóp mạnh lấy vai tôi, đau nhói. Tôi nghe anh nói, giọng có vẻ xúc động :
- Nhớ tìm anh nghe.
Rồi anh lẹ làng nhét một mảnh giấy nhỏ vào túi áo trên của tôi, quay người đi vội xuống cửa sau, chụp bao đồ nhảy xuống khi xe chưa ngừng hẳn. Tôi nhoài người ra cửa hông, thấy anh đứng bên lề đường đưa tay vẫy vẫy.
Xe qua khỏi Khánh Dương một đoạn, tôi chợt nhớ tờ giấy anh nhét vào túi áo. Ðó là tờ giấy bao vỏ thuốc Capstan, trên có ghi địa chỉ nhà anh và ở dưới có dòng chữ viết vội :
“ Chú Trọng
Về quê ăn Tết vui vẻ nghe. Biết chú không có thì giờ thôi thì để ra Giêng tìm tới anh. Có nhiều chuyện muốn hỏi chú.
Anh Tấn
Người cùng Xóm Ðình


Quê Xa, những ngày cuối năm
Hiên Trăng Brookhurst

-----------
(*) Bức Tâm Thư nhạc Lam Phương
(**) Xuân Này Con Không Về nhạc Trịnh Lâm Ngân

KỶ NIỆM NGÀY XUÂN


nhớ một mùa Xuân xóm nhỏ

nồi bánh Tết thơm hương nếp ruộng đồng
củi dẻ Nâu đượm than hồng cuối Chạp
em chắt nước vần nồi xôi vừa cạn
đêm cuối năm ngồi canh bánh đầu năm

lửa reo vui hòa tiếng pháo xa xăm
vỉ thịt nướng trở màu, thơm vị sả
đón dĩa xôi từ tay em vồn vã
đền công anh canh bánh Tết nhà em

em làm chi khách sáo quá, không nên
cứ như thể anh là người xa lạ
xa lạ gì em! Sao bày vẽ quá
quen lâu rồi chớ phải mới đây đâu !

đã nắm tay em, nắm thiệt là lâu
nhưng chưa dám hun bởi còn mắc cở
nếu quả thiệt tình mình là duyên nợ
thì trước sau em cũng nợ theo anh

đêm cuối Chạp nên chi trời se lạnh
càng về khuya sương rớt hột bên hiên
thoảng đâu đây mùi trầm hương hòa quyện
nghe nôn nao không khí Tết ùa về

chẳng hẹn nhau, hai đứa cùng liếc khẽ
anh rụt rè nắm lấy bàn tay em
những ngón tay tìm những ngón tay quen
cái siết nhẹ mà sao tim đập mạnh !

đêm cuối Chạp dẫu tiết trời se lạnh
mà lòng anh ấm lắm, nụ-hôn-đầu
đừng giận gì anh nghe em yêu dấu
dấu môi hôn dính mỡ đầy má em !

em khẽ khàng lấy khăn tay lau nhẹ
chúm chím cười đôi con mắt có đuôi
còn cười chi cho lòng anh bối rối !
tự trách mình vụng dại quá đi thôi…

mấy mươi năm anh còn giữ trong đời
nụ-hôn-mỡ làm lòng anh ngượng chín
cũng chẳng thể quên làn da mát mịn
cảm giác đầu từ một nụ hôn em…

TÌNH XUÂN


khắc nghiệt quê người cái rét tháng Giêng
tháng Giêng quê xa, quê nhà cuối Chạp
đêm giao thừa trầm hương bay xa, lạc
em choàng cho anh áo ấm, thêm tình
phố vẫn bình yên giữa đêm yên, tĩnh
anh thắp tuần nhang tế cáo Đất, Trời
đất thì lạ trời Đông Tây lạc nỗi
chiều phương Đoài thì nắng rực phương Đông
Tết quê nhà mà đây vẫn bình, không
mai vẫn phải nhập dòng vào xa lộ
vẫn không thôi, toan tính chuyện đời thường…
mai qua Xuân quên nhìn con Én lượn
quên nhìn em son phấn ngạo nhân gian
quên lửng lòng anh lạc dòng nông, cạn
đón ngày Xuân giữa đất lạ xa người
hương trầm thơm quyện nỗi nhớ không nguôi
về một thuở quê nhà thơm lựng Tết
về một thuở em tình trao anh giữ

giữ cái độ nồng say, cay mùi pháo
nổ râm ran từ cuối Xóm đầu Làng
nổ giữa tình anh tình em lãng mạn
nụ hôn chia giờ phút đón giao thừa
em nũng nịu níu lòng anh nghiêng ngửa
nụ hôn thơm hòa quyện khói trầm hương
nụ hôn thơm lồng lộng cả phố phường
ran cả cõi tình xuân đêm đón Tết

đêm một thời anh vẫn còn giữ miết
từ phương Đông lưu lạc tới phương Đoài
dẫu có phải cứ một đời đi mỏi
vẫn còn nhau, Mùa Tết, đón giao thừa…
( từ phương em thủy chung đời lưu lạc
từ phương anh Thơ gợi nhớ ngày xưa…)

Xóm Cát, Escondido, cuối năm

CHIỀU CUỐI NĂM GÓC QUÁN MỘT MÌNH


mùa Xuân có hoa Mai nở với hoa Đào
có nụ cười rộn rã phố đông vui
có con Én bỏ mùa Đông buồn tủi
ôm trời xanh chao lượn dáng nòi tình

tôi, chiều cuối năm, qua phố một mình
ngó quanh quẩn thấy đời mình cạn vốn
mấy mươi năm bỏ phong bao hào phóng
riết tình xuân mỏng dính tới bây giờ !

ở nơi chốn lạc đường đời cơ nhỡ
mượn mùa Xuân dù trái gió trở trời
tháng Giêng, Hai quê người qua năm mới
ở quê nhà chờ tống-cựu-nghinh-tân

tới chỗ nào cho vợi bớt bâng khuâng
góc quán âm thầm ly cà phê đen, đắng
từng giọt rơi gọi chiều Xuân thầm lặng
bóng với hình thui thủi ngó nhìn nhau

chiều quê xa, như mọi chiều, qua mau
làm sao níu những chiều quê hương cũ
nơi có bạn bè, người yêu, kéo dòng thác lũ
cuồng cuộn mùa Xuân da diết những mùa Xuân

con Én lạc đường bay trời cố quận
tôi lạc đương cơ nhỡ chốn quê xa
chiều cuối năm ly cà phê đen, đắng
có nỗi buồn nương khói thuốc bay cao….

Góc quán chiều-cuối-năm

tháng 1 28, 2009

CHÚC MỪNG NĂM MỚI 2009

TẾT QUÊ NHÀ


Đã có từng cơn gió chướng tràn về từ hướng núi. Trời trở lạnh và khô. Hoa Quỳ Hương nở rộ hai bên đường, vàng óng.
Bác Hai Mộc đã...qui cố hương . Thím Ba Hồng cũng…hồi cố quận . Anh Tư Quân cũng… xếp tàn y về nơi cố thổ. Đó là cách nói thời thượng mang nặng tính võ hiệp giang hồ của anh Kiệt, nghe riết cũng thấy hay hay lại có văn vẻ cho nên ai cũng cố tình bắt chước. Sức học anh thì chưa tính được bao nhiêu nhưng sức đọc của anh thì tính tới bao, bồ mà đựng. Anh đọc truyện tới nỗi quên ăn quên ngủ.Toàn là chuyện kiếm hiệp. Đọc đến nỗi nhập tâm. Có Bác Hai Luân bị “dị ứng” về lối nói năng nặng mùi kiếm hiệp của anh Kiệt. Bác cứ lầm bầm “ Qui cố hương, hồi cố quận hay có về nơi cố thổ thì cứ nói rẹt một tiếng về cho nó gọn. Bày đặt…”.
Mà cũng bày đặt thiệt !
Tết thì về quê ăn Tết chớ bày đặt chuyện qui, hồi cố hương cố quận cố thổ chọc giận nhau làm chi !
Hàng Mai già dọc đường dốc đất bên cạnh Chùa Linh Quang đã kết nụ rồi, sắp nở rồi. Bụi Quỳ Hương ở hục Bà Sơ sau lưng chợ Chiều chỉ còn thưa thớt mấy cái bông vàng rực . Vàng rực hết sức để chờ tàn, chờ rụng . Bởi, khi hoa Quỳ Hương tàn rụng là lót đường cho mùa Xuân mạnh đường đi tới. Tiếng heo kêu ở nhà thím Hiếu làm nôn nao mấy củ hành ngâm giấm đã trở màu hồng đậm trong hủ thủy tinh. Trở màu là đã “ chín mùi ” vị ngọt chua, thanh cảnh .Gắp ra dĩa, để ghém với miếng thịt heo được rồi đó! Mà tiếng heo kêu giờ này nghe tràn đầy nội lực chớ không eo éo như thường ngày vẫn kêu . Như vậy là đã đúng lứa, sắp vô nồi ! Mà nồi chung chớ không phải nồi riêng của gia đình nào.
Chuyện nuôi heo ăn Tết thì hầu như ở Xóm nghèo quê tôi đã quen thành lệ. Cứ năm ba gia đình chung vốn mua heo rồi giao trọng trách cho một người mát tay nhất trong nhóm nuôi vỗ chờ Tết ngả thịt, chia đều. Tính toán, thỏa thuận rất sòng phẳng để không ai phải bị thiệt thòi.
Thuận buồm xuôi gió thì mùa Tết có thịt để mà rộn ràng bận rộn với nồi niêu xoong chảo . Bằng như…nửa đường đứt gánh thì coi như phủi tay, coi như là chỉ ăn Tết có một nửa, mất vui.
Còn về chuyện thịt gà ! Tuy là không chung vốn mà phải tự lo liệu nhưng cũng phải chuẩn bị kỹ càng. Tháng Tư ta là lo đem gà trống còn non tơ ra chợ tìm ông thợ thiến gà. Lo đóng chuồng. Vật liệu sơ sài cũng được nhưng phải bảo đảm là mỗi chú gà một chuồng riêng vừa đủ đứng, nằm chớ không có khoảng rộng để đi tới đi lui.
Nếu …thuận buồm xuôi gió, thì khoảng tháng mười-hai-ta, lứa gà thiến thịt thà đã nặng chình chịch, lông lá đã trổ màu sắc rực rỡ. Mỗi chú trọng lượng cũng cỡ chừng bốn tới năm ký. Nhà nuôi chừng hai, ba con thì tha hồ mà ăn Tết.
Nhưng mà cũng khó lắm. Bắt đầu từ tháng-mười-chưa-cười-đã-tối cho tới đầu tháng mười-hai-rét-ngọt thì cái nạn dịch gà khó cản. Qua được cửa ải này thì nồi niêu mới có dịp khua ran để mà ăn Tết. Thường thì khó vượt lắm…
Còn cái khoản thịt bò thì quá đỗi xa vời, không cách gì với tới. Chỉ có trong dịp hội Làng. Mà nhắc tới Làng Nước thì bao la quá. Nhất là miếng thịt của Làng thì cũng quá là nhiêu khê! Chi bằng trở về lại một mái nhà với miếng thịt tự cung tự cầu, mà cũng… tự nhiên hơn, để hưởng ba ngày Tết.
Chỉ có thịt heo, thịt gà là gần gụi với tầm tay. Và cũng chỉ có chú Quý là người gần gụi và thân tình với bà con hơn hết, nhất là thời gian cận kề Tết. Bởi chú là tay đồ tể, nếu nói theo cách nói của anh Kiệt, là vào bậc thượng thừa. Tôi còn nhớ như in hình ảnh của chú. To lớn dềnh dàng, dáng đi khật khưởng. Gương mặt to ngang với đôi mắt xếch và cặp lông mày rậm đen. Nhìn chú thì thấy dữ dằn nhưng chú hiền lắm, lúc nào cũng cười. Ai nói gì cũng cười, nụ cười tươi vui, đôn hậu trái hẳn với vẻ hung hãn, dữ dằn của chú.
Cũng không biết do từ đâu mà ai gặp cũng gọi chú là Tiết Nhơn Quý, một nhân vật trong truyện Tàu, riết rồi chết tên luôn.
Chắc tại vì tướng tá to lớn dềnh dàng với lại sẵn chú tên Quý. Hay cũng từ anh Kiệt…
Thường ngày, chú rất chậm chạp trong công việc nhưng khi nhập vai đồ tể, chú nhanh nhẹn vô cùng. Từ lúc lùa heo ra cửa chuồng cho tới lúc xả thịt chia chác đồng đều cho các sướng (chớ không phải khổ) chủ, mọi động tác đều chính xác, gọn gàng. Ai nấy nhận phần thảy đều vui lòng hễ hả. Với đôi tay thiện nghệ và dưới mắt nhìn ước lượng cân đo của chú, xác suất trọng lượng phần thịt chia chỉ nhỉnh hơn chút đỉnh. Ngày Tết mà, giành nhau tiếng cười vui chớ giành nhau chi thêm mấy miếng thịt chưa đủ giắt răng. Thảo nào anh Kiệt nói chú là tay đồ tể thượng thừa kể cũng không ngoa. Dễ chi kiếm được người thứ hai.
Công cán thì chú chỉ nhận đúng nửa ký thịt đùi và một lít rượu, vậy thôi. Thêm cũng không chịu. Bớt cũng không chịu. Ngang bằng sòng phẳng. Rồi chú qua nhà khác cho kịp giờ.
Mùa Tết là mùa làm ăn sung mãn của chú. Mùa Tết cũng là mùa chạy marathon của lũ trẻ chúng tôi. Cứ nghe tiếng heo kêu dậy trời dậy đất là tụi tôi tranh nhau rượt chạy cho kịp thời coi ông Tiết Nhơn Quý sát trư. Có khi một ngày chạy hai ba lần…
Sau này, có thêm chú Thứ nhà gần Hục Bà Sơ nhưng tay nghề không so kịp bằng chú Quý.
Mùa Tết cũng là mùa hoa. Ba ngày Tết mà trong nhà không có màu sắc của hoa thì còn có ý nghĩa gì!
Nhà nào cũng có một cành Mai hồng thắm. Mà đâu có phải bỏ tiền mua. Chỉ cần bỏ công nửa ngày, vào rừng. Xóm với rừng gần nhau, đi thì chỉ khoảng nửa tiếng đồng hồ, nhưng phải bỏ công nửa ngày là để chọn lựa một cành Mai ưng ý.
Mai mọc bạt rừng, bạt núi thậm chí tràn vô tới Xóm. Hầu như nhà nào cũng có một cây Mai trước ngõ.
Tháng mười-hai, Mai nhà đã nụ hồng có nhà thì hoa đã rộ nở.
Tôi còn nhớ, con đường mà tôi thích nhất là con đường hẻm dài một hàng Mai tươi tốt, từ nhà bác Nghi qua nhà ôn mệ Lào, rồi chấm dứt ở nhà ôn Cai Tư. Một khoảng đường rất ngắn nhưng giữ mãi trong tôi êm đềm cái cảm giác râm mát bóng cây của tháng Hè và nôn nao những bông Mai hồng thắm của ngày Xuân. Tôi thường đi, về trên con đường đất gập ghềnh này trong suốt thời gian học ở trường Tiểu học Bạch Đằng, nằm cheo leo trên ngọn đồi Cao Thắng. Con đường hẻm đất đá có hàng Mai rợp bóng là một trong những kỷ niệm tôi giữ hoài về chốn quê. Nhất là những ngày Xuân, nhìn hoa Mai rộ nở, lòng cứ nôn nao hòa nhập trong những nôn nao có quần áo mới, có tiền lì xì, có pháo đốt thả giàn, có những trò vui chơi trong ngày Hội Làng…Cho đến bây giờ, vẫn cứ còn giữ mãi độ ấm nồng ngầy ngật mỗi độ Xuân về. Ấm nồng ngầy ngật bởi lẽ, duyên nợ trăm năm đã gắn bó đời tôi với tà áo tiểu thư ở một trong những ngôi nhà trên khoảng đường rất ngắn, của ngày xưa, đó…
Những ngày cuối Chạp, đứng ở Xóm mà nhìn về hướng núi là cả một thảm hoa hồng rực chạy dài từ Cam Ly Hạ ngược lên Dốc Trời ngút ngàn vô sâu tận Rừng Dẻ. Tầm nhìn tuổi thơ chỉ chừng giới hạn nhưng trí tưởng tượng thì dặm dài xa ngất. Tôi nghĩ rừng Mai chắc vô cùng tận, không chỉ ngừng ở Rừng Dẻ vốn đã là quá xa, chắc còn sâu còn xa hơn nữa. Ở chỗ núi mờ xanh thẳm mịt mùng…
Mấy anh trai Xóm thì nghĩ ngợi gần hơn.
Đâu cần phải xanh thẳm mịt mùng làm chi cho mệt. Chỉ cần vào khu rừng Mai Cam Ly Hạ mà đem hương sắc mùa Xuân về trang hoàng nhà cửa.
Buổi sớm mai dằn mấy chén cơm cho chắc bụng rồi sẵn sàng dao, rựa rủ nhau đông đảo tới rừng Mai. Khi chọn cành Mai ưng ý là đã đắn đo ước lượng khoảnh rộng hẹp của phòng khách, nơi sẽ được chưng bày cành Mai giữ hương sắc mùa Xuân, cũng chính là nơi làm rạng nét nhà. Phòng khách rộng mà cành Mai nhỏ thì bất xứng, lại bị thầm chê là hoàn toàn không có khiếu về mỹ thuật. Cành Mai to đùng mà chưng ở phòng khách quá nhỏ thì có vẻ như là khoe khoang, giựt nổi. Rồi cũng phải tính toán khít khao làm sao hoa sẽ nở rộ vào đúng những ngày Tết. Nụ nhiều quá thì không tốt mà nở sớm quá thì cũng không tốt luôn.
Đến chúc Tết nhà, việc đầu tiên là liếc thầm một cái về phía cành Mai được trang hoàng trong phòng khách, để đánh giá và so sánh. Đánh giá trình độ nghệ thuật của chủ nhà và sẵn đó, so sánh cành Mai của nhà chủ với nhà mình. Chủ và khách, rất nhanh, bắt gặp ánh mắt nhau ở cái liếc thầm này trước khi bắt tay nhau. Sự ganh đua, so sánh không hề to tiếng, chỉ lén thầm nhưng đã thành ước lệ. Thầm nhận biết mình thua hay tự hào mình hơn cũng chỉ là cảm giác buồn, vui nhỏ như tiếng pháo chuột so với tiếng pháo cối, vậy thôi. Nhưng mà cũng phải liếc chớ, thiếu đâu có được!.
Vô hình trung, đã thành một tục lệ âm thầm, ở Xóm quê tôi. Cho nên nhiệm vụ của mấy anh đi chặt cành Mai chưng bày đón Tết là đi mang sứ mạng trong người, có phải chơi đâu…

Ngoài cành Mai là tiêu biểu lớn, còn có hoa Vạn Thọ, hoa Cúc và cao sang quyền quý yểu điệu thục nữ quân tử háo cầu là hoa Lan.
Hoa Vạn Thọ, Cúc đơn, Cúc đại đóa thì hầu như , ít nhiều, nhà nào cũng rộ. Trồng trong chậu để cầu kỳ dành riêng cho ba ngày Tết . Trồng trước sân nhà làm cây cảnh tự nhiên.
Riêng về cái khoảng hoa Lan thì khó cầu nên chi rất hiếm. Cũng muốn có một chậu Lan để khi người đến chúc Tết , cố theo dõi cái liếc thầm của khách, mà thấy sướng vui trong bụng.
Nhưng mà đâu có dễ bởi vì hoa Lan thiệt như là đứa con cầu tự, khó nuôi khó dưỡng. Nóng thì bất ưng lạnh thì bất ổn. Phải dành một khu đất riêng có giàn rào che chắn gió, có mái chống nắng tránh mưa. Công sức và tiền của bỏ vô đó cũng bộn bề. Chưa nói tới chuyện phải tìm tòi học hỏi trao đổi về kỹ thuật qua sách vở, qua thực tế kinh nghiệm. Phải đong đo cân đếm khí hậu thời tiết thay đổi từng mùa mà liệu chừng tìm phương cách cưng chiều chăm chút thúc ép cho hoa nở đúng thời. Nở sớm quá thì mất duyên. Nở trễ quá thì…hết Tết rồi, nở làm gì nữa !
Miếng bỏ bụng đói no ngày tháng còn chưa lo tới được nói chi chuyện chăm lo cho đời sống cao sang của loài hoa vương giả. Và, nói cho cuối cùng, cũng chỉ nhằm để thỏa mãn, đắc ý cho một cái liếc thầm của khách. Cao xa quá! Nhiêu khê quá! Làm sao mà liếc cho tới đây ! Thôi thì cứ liếc thầm một cành Mai chưng Tết, đủ rồi !
Tết cũng là dịp để vui chơi sau một năm dài cực khổ trong việc mưu sinh. Cũng là dịp để gia đình đoàn tụ. Đồng tiền chắt bóp, dành dụm được trong năm đổ dồn cho ba ngày Tết. Mang công mắc nợ ai thì lo thanh toán sòng phẳng trước khi bước qua năm mới. Cố dọn dẹp thu vén cho lòng dạ nhẹ nhàng không còn cứ đeo nặng những rủi, buồn năm cũ để chuẩn bị sẵn sàng tống-cựu-nghinh-tân. Đón năm mới với tấm lòng bao dung hương trầm, ngọt ngào dẻo thơm miếng mứt. Và, tận hưởng ba ngày Tết cho giòn dã như pháo…
Tiếng là nói vui chơi ba ngày Tết nhưng có chừng mực như vậy đâu!. Có nơi vui chơi từ mồng-một cho tới mồng-mười. Qua ngày mười-một tháng Giêng thì không nghe ai nói mà cũng không có tự điển nào ghi là mồng-mười-một. Như vậy, có nghĩa là, hết mồng, hết chơi !
Có nơi vui chơi thả giàn tới cuối tháng Giêng.
Nói chung, Tết là không có ai làm mà chỉ chơi. Cũng không có ai buồn mà chỉ vui. Nhưng mà có gì để chơi cho vui đây?.
Thì có Hội Làng Mùa Xuân đó !
Hội Làng Mùa Xuân, nói gọn nhẹ là Hội Tết, ở quê tôi Làng nào mà không có.
Tuổi thơ tôi rưng rức những kỷ niệm mang vẻ dáng mộc mạc chân quê, đầy đặn sắc thái và đặc thù tính dân tộc của Hội Làng Tết. Ngầy ngật cho tới cả bây giờ.
Tiếng chiêng trống vang lừng và tiếng pháo nổ dòn tang báo giờ khai Hội của một buổi sáng Mồng Một Tết năm nào, và cả nhiều năm sau đó trong tuổi thơ, còn đọng lại đâu đây. Bà con lũ lượt về hướng sân Đình chờ giờ mở Hội khai Xuân.
Tôi thấy cả một bức tranh quê sống động.
Thấy chú Tiết Nhơn Quý ôm chai rượu đi ngang giữa đường Làng, gặp ai chú cũng cười. Một tiếng cười là thêm một ngụm rượu. Ba ngày Tết chú cứ đi ngang, không thèm đi thẳng.
Thấy mọi người mặc quần áo mới, nói cười hễ hả. Gặp nhau và chúc tụng nhau.
Thấy Ba tôi, ôn Cai Hoành, khăn đóng áo dài đang giục giã ba hồi trống lệnh. Bên kia, bác Ba Cận, tiếp chiêu với ba hồi chiêng vang lừng.
Thấy anh Bé, trưởng tràng nhóm Lễ sinh, hai tay trịnh trọng nâng cây đèn sáp đi từng bước theo nhịp trống. Những bước chân bài bản, nhấc cao lên rồi hạ xuống, vững chắc nhịp nhàng. Anh dừng lại trước tràng pháo dài được treo từ cây nêu cao ngất. Tiếng trống, từ nhịp khoan thai, trở điệu liên hồi gióng giả hòa với tiếng chiêng nghe rộn cả lòng. Ngọn lửa được châm vào ngòi pháo báo giờ khai Hội ngày Xuân. Anh lạng người chạy lẹ, tránh pháo. Đám trẻ tụi tôi thì tranh nhau nhào tới để giành giựt những chiếc pháo xì. Bà con xoa tay hớn hở, tìm chỗ vui Xuân.
Đầu tiên là phải tới thăm đám bầu-cua-cá-cọp hay mấy tay tráo bài ba lá. Văn nhân thì khai bút đầu năm. Thường nhân thì đâu có tài nhả ngọc phun châu, bút mực đâu mà khai! Khai bạc đầu năm để thử thời vận cũng tốt. Có người thì chừng mực. Có người thì quyết đấu!. Nếu thử thời vận thì chỉ một hai ván cho biết chừng số đỏ, số đen đầu năm rồi lo kiếm đường qua trò chơi khác. Ăn bạc thì mừng rơn vì tin là năm tới mình sẽ phát tài. Thua bạc thì buồn trong bụng vì nghĩ là năm tới số mình đen vận. Nhưng dẫu sao cũng còn vớt vát được vì sực nhớ còn có câu “đen bạc đỏ tình”. Câu nói thiệt như là lô an ủi cho vận hạn rủi may. Năm tới không có bạc nhưng có tình thì cũng coi như là, không đỏ, mà hồng. Hồng tất nhiên là phải tốt hơn đen.
Rồi nghĩ cho cùng, cũng thấy kẹt. Với mấy tay còn độc thân vui ( hay khó) tính mà được tình thì coi như buồn ngủ gặp chiếu manh, như mèo thấy mỡ. Mấy tay vợ con đùm đề mà được tình thì chắc là lụy.
Còn tính chuyện quyết đấu thì chẳng khác gì đem đồng tiền làm lụng cả năm trời mà lì xì mừng Tết cho mấy sòng bầu-cua-cá-cọp hay mấy đám bài ba lá.
Không tin ngó anh Cu Lập, con thím Nghi, ngồi ở góc sân nhà chú Thưởng uống rượu tì tì. Ai cũng lấy làm lạ, bởi hồi nào tới giờ anh có uống rượu đâu! Uống trà đậm còn say mà! Hỏi ra mới biết tại vì anh thua tới cháy túi vì sòng bầu-cua-cá-cọp nên uống rượu tiêu sầu ! Sầu thì không (hay chưa) tiêu mà chỉ thấy khiêng anh về nhà nằm rẹp thẳng cẳng, chẳng thèm ăn Tết.
Rồi còn chú Tư Lãm đi lên đi xuống ở đường Làng, mặt mày ngơ ngác dáo dác tìm quanh. Ngày Xuân mà gặp ai chú cũng không có lời chúc Tết mà có ai chúc Tết, chú cũng cứ bỏ ngơ. Hỏi ra mới biết chú vừa bị mấy đám bài…ba láp nó …táp hết tiền rồi!
Đi lên đi xuống dáo dác nhìn quanh là đi tìm lại tiền đó mà! Chắc là thua đậm mới lậm hồn vía tới tầm cỡ đó!.
Khai bạc đầu năm chi mà quá bất nhẩn vậy trời !
Đồng tiền được lì xì đầu năm mới thì thể nào tôi cũng mua một con gà đất của một ông nào lạ hoắc, không phải dân miền tôi ở. Tiếng nói ông lơ lớ, da màu nâu sẫm, tóc hơi xoắn. Tôi “ngửi” ông có mùi biển mặn. Chắc là ông từ miệt Tháp Chàm, Phan Rang, Phan Rí. Gà được bày hàng trên chiếc chiếu lớn. Đám con nít bu quanh tranh nhau lì xì tiền cho ông. Có qua có lại , ông cũng lì xì gà không hở tay. Mỗi ngày ông bán hết một vuông chiếu lớn gà rồi ngày sau gà lại nở ra thêm một vuông chiếu lớn nữa. Gà đất mà đắt như tôm tươi bởi đám nhỏ tụi tôi mê mệt con gà đất này quá sức. Nó thiệt ngộ nghĩnh về hình dáng, màu sắc mà còn biết gáy nữa.Đầu với đuôi được nối bằng lớp giấy rất dày. Hai tay cầm đầu cầm đuôi rồi đẩy tới đẩy lui, nó gáy nghe rất lạ. Nếu không muốn cầm mà đẩy thì ở cuối đuôi có khoét một lỗ nhỏ, tròn. Kê miệng vô mà thổi, lực hơi đẩy mạnh cái đầu nó nhỏm tới, nó cũng gáy nghe rất khoái. Nó được làm bằng đất nung. Chắc chắn là được đúc khuôn rời từng mảnh rồi gắn với nhau bằng lớp keo dính vì thấy đầu đuôi cũng y dạng. Toàn thân sơn màu đất đỏ rồi được phết sơ sài chiếu lệ một lớp dầu bóng. Mấy nét vẽ vội vàng chủ yếu là phân biệt đầu với đuôi. Đầu thì có hai con mắt với lại mấy nét vẽ phết xuống tượng hình là lông gà. Đuôi thì ngoài cái lỗ nhỏ khoét sẵn, thêm vài nét vẽ phết ngược lên tượng hình là cái đuôi. Lớp giấy dày nối đầu và đuôi làm thân gà thì không vẽ vời lông lá gì cả mà loang vết dầu chắc là có dụng ý giữ cho giấy có độ dai để chịu đựng lực kéo. Nhìn chung thì nó cũng chỉ phảng phất hình dáng con gà. Tiếng gáy thì cũng chỉ nghe “ót, ót” chớ đâu có trầm bổng gì đâu. Mấy nét vẽ sơ sài trên phần đầu tròn vo với phần đuôi cũng tròn vo y dạng không phân biệt được gà mái hay gà cồ. Thật ra, cũng chỉ tự lòng ham thích đồ chơi lạ và trí tưởng tượng phong phú mà nó đã là con gà đất hằn dấu trong kỷ niệm ấu thơ để mà giữ mãi trong đời. Còn chuyện gà trống hay gà mái thì có gì mà bận tâm. Gà trống cũng được. Gà mái cũng được. Miễn là có con gà đất biết gáy để chơi ba ngày Tết là cũng được quá rồi!

Lại có thêm một ông nữa, bán heo đất. Đất nung và cũng được đúc khuôn rời hai mảnh rồi gắn lại với nhau bằng lớp keo dính. Hình dáng khá rõ ràng là một chú heo mập ú. Có đôi mắt được vẽ xếch ngược lên có vẻ như đang cười. Có cả hai cái tai nhỏ xíu . Có chùm lông đuôi đen nhánh ở cuối cái đuôi được đúc nổi cộm. Có bốn cái chân ngắn củn, mập tròn. Điểm chính yếu và quan trọng nhất để nó trở thành con heo đất là một rảnh nhỏ, dài đủ để bỏ tiền lọt vô trong cái bụng to bành. Tiền giấy thì xếp làm tư, nhét xuống. Tiền cắc thì cứ thả vô tự nhiên. Heo đất giữ lâu hơn, có thể giáp năm, để giữ tiền dành dụm. Nó cũng cất giữ cho tôi nỗi buồn vui. Cất giữ luôn tiếng khóc tiếng cười. Và, cũng giữ cho tôi quá nhiều kỷ niệm.
Con heo đất được cất giữ ở một nơi kín đáo thường là dưới gậm giường ở chỗ tối nhất. Mỗi lần có tiền để bỏ vô bụng heo mặc dù không có ai nhưng cứ dòm quanh dáo dác. Tiền cắc bỏ vô nghe cái “rẻng”, sướng rêm. Tiền giấy xếp tư nhét xuống nghe tiếng giấy cạ vào thành lỗ “rẹt,rẹt” lại càng sướng hung. Lâu lâu lại, dáo dác nhìn quanh, lấy con heo đất ra cầm trên tay ướm chừng độ nặng, nhẹ.Thể nào cũng phải lắc lắc vài cái để nghe tiền cắc đánh nhau trong đó rổn rảng, tiền giấy đẩy nhau trong đó sột soạt. Thời điểm để khui heo đất là dịp cuối năm.
Nói là khui heo đất, thật ra, thì không đúng. Phải nói là đập heo đất nghe đúng nghĩa hơn. Cầm con heo đất mà xáng xuống nền nhà nghe một tiếng ”bộp”. Cầm cái búa hay cục đá, hòn gạch đập mạnh vào con heo đất nghe một tiếng “bụp”. Dù cho “bộp” hay “bụp” thì cũng cảm thấy sướng tay. Cảm giác sau đó là “đã” con mắt khi thấy tiền lâu ngày kìm hãm được dịp túa ra. Tiền giấy ôm tiền cắc sõng soài la liệt. Cảm giác cuối cùng sau khi đã sướng tay mãn nhãn là nỗi buồn vui lẫn lộn. Vui là vì cứ nghĩ là lâu nay mình bỏ tiền vô ít mà bây giờ sao mà ùa té ra nhiều dữ vậy! Buồn là vì cứ đinh ninh mình bỏ tiền vô nhiều mà sao giờ nhảy ra có chút đỉnh ! Buồn với vui cũng chỉ là cảm giác bất chợt rồi qua đi như tiếng “bộp” hay tiếng “bụp” thôi! Điều đáng nói lâu dài là có mớ bạc giắt lưng để rong chơi ba ngày Tết.
Khi đã có mớ tiền rủng rỉnh thì cũng tính chuyện tiêu pha nhưng phải nhớ là mua một con heo đất khác để cuối năm còn có dịp mà “bộp” hay “bụp” một cái cho buồn vui lẫn lộn.
Cũng đừng quên là có gian hàng mới lạ, mang vẻ dáng văn minh thành phố mà lâu nay làng quê chợ xóm không thể nào có được.
Đó là gian hàng nước đá nhận xi rô. Không kể đám con nít tụi tôi mà cả nam phụ lão đều đứng đông nghẹt để chờ nắm cho được cục nước đá có màu xi rô xanh, đỏ,tím,vàng mà mút chùn chụt. Đám con nít tụi tôi cầm cục đá nhận xi rô mà mút kiểu đó thì là chuyện bình thường, có khi còn thấy dễ thương. Tầm cỡ như bô lão, phụ lão, thanh niên, thiếu nữ mà mút, cũng chỉ là kiểu đó thôi, thì coi đã không bình thường mà thiệt là dễ nực.
Có mấy ông , chắc cũng tại vì răng cỏ lung lay chịu không siết hơi đá lạnh, nhịp mút không được sung. Nước đá quyện với nước xi rô chảy dính râu tèm nhẹp. Có mấy chị, chắc vì khoái khẩu mùi vị thơm ngọt của nước xi rô lại thêm hơi mát lạnh của cục đá nhận, cứ ngẩng đầu lên mút cố mạng. Vừa đi vừa mút đụng ai nấy chịu.
Mà cũng đúng thôi!
Thuở nào tới giờ ở Xóm quê làm gì có cục nước đá mát lạnh! Đã vậy lại còn có cả nước xi rô, tìm ở đâu cho ra mà hưởng! Nay, vừa có đá lạnh vừa có nước xi rô thì bu đông đen tìm của lạ là đúng ! Còn mút cỡ nào miễn tận hưởng cho tới bến là được rồi.
Buôn một lời năm, mười chớ đâu phải chơi đâu! Cục nước đá được bào nhuyễn rớt xuống cái ly đầy vun. Ngó thì đầy vun hào sảng vậy đó chớ khi nén xuống, nó chỉ còn có tới gần nửa ly thôi. Có thêm tiết mục hỏi khách hàng ưng ý xi rô màu gì?. Xanh đỏ tím vàng tùy theo ý thích, mà nếu ưng có nửa màu này nửa màu kia cho lạ mắt thì cũng được, không phiền hà gì. Cầm chai xi rô xịt vô rồi lật ngược cái ly thổ nhẹ. Cục đá tẩm màu rớt ra, cứng ngắt. Một tay đưa cho khách một tay lấy tiền bỏ hộc. Toàn tay trần năm ngón, không có ly dĩa giấy lót rườm rà. Cái thú của món đá nhận xi rô là cầm vừa mát tay mút vừa mát miệng lại mát cả lòng.
Trước sau cũng chỉ toàn là nước, vậy mà bà con cứ đứng xếp hàng đóng tiền vui vẻ, thoải mái.
Tôi rõ chuyện này lắm vì ông chủ gian hàng bán nước đá nhận xi rô có phải ai đâu xa lạ, là ông chú họ của tôi mà. Chú Thành đó.
Chú đứng tên xin Ban Hương Chức Làng một lô đất để bán nước giải khát . Làng thì không thắc mắc miễn có xin phép, có đóng tiền mua lô, có đóng thêm một vài khỏan tiền qui định là được.
Nhưng mà Thím tôi thì thắc mắc, cứ gặn hỏi chú hoài. Khi biết được cái tên nước giải khát gì mà lạ, trước giờ chưa nghe, thì thím ngồi buồn xo như chiều ba-mươi-tết. Thím làm mình làm mẩy không chịu gói bánh, không thèm làm mứt. Thím đình công luôn cái vụ mặc áo đẹp, nhồi phấn thoa son cho chú nhìn ngắm ba ngày Tết.
Lý do mà thím giận thím hờn cũng thiệt là đúng. Ai đời cái xóm đèn dầu quanh năm suốt tháng, nhà nào sang cả lắm thì cũng chỉ một cây đèn manchon, cũng được bơm và thắp sáng bằng dầu, mà tính chi tới chuyện xa vời khó tưởng. Nước suối nước sông thì có chớ nước đá, tìm đâu! Rồi còn cái nước xi rô xi ra đỏ tím xanh vàng chi đó, là cái nước chi?. Chắc là ông qua bên Tây, bên Mỹ ông kiếm đưa về. Thím trách chú là mộng tưởng xa vời, ngồi thắp cây đèn dầu mà uống nước đá “giận” với “xi rồ”( chắc là ý của Thím muốn nói khéo là thím giận chú điên rồ!).
Chú giải thích, phân tích mấy thím cũng không nghe. Năn nỉ quá chừng, cuối cùng, thím chịu theo chú tới gặp Ba tôi để bàn chuyện phải trái nên hư. Ba tôi phán :”Thím yên tâm về gói bánh, làm thêm mứt món ăn mừng. Chuyện này để chuù lo”. Thím liếc Ba tôi một cái, nhưng mà không dám bén, như khi liếc một cái cho chú. Bởi vì, Ba tôi là kẻ lớn trong Họ, lời nói phải nặng cỡ bao tạ. Thím là vai em, là dâu về gởi Họ, khó có lời. Về thôi !
Ba tôi mạnh miệng là vì ông biết quá rành về chú . Chú đã từng theo học nghề của Ba tôi mấy năm mà chậm lụt không ra gì, cuối cùng thì có ý lơ là bỏ cuộc. Bù lại, chú có đầu óc kinh doanh, nắm bắt thời cơ rất nhạy. Dám đi buôn bò ở tận miệt Gia Lai xa tít cả năm mười ngày rồi lùa bò về. Lặn lội lên tới miệt Suối Vàng vô các làng Thượng trao đổi heo, gà, đồ đồng, đồ cổ các loại. Bươn chải tới miệt Phan Rang, Phan Rí buôn vịt, chum, vại, đồ đất…Việc gì nhắm có ra hơi tiền là chú nhào vô kiếm chác. Không có lần nào thua hết. Thiệt đúng như lời anh Kiệt nói là “độc cô cầu bại”. Nay vợ chồng cùng tìm tới vấn kế làm ăn thì phán một câu như vậy là đúng sách. Tay này thì đâu có phải vừa, trước khi tới thì đã có vạch sẵn kế hoạch làm ăn, tính toán lỗ lời rồi. Chẳng qua tới để tìm đồng minh đó thôi !
Phần chú, được lời của Ba tôi, chú làm liền. Nước đá thì đâu có gì khó khăn gì. Hợp đồng( giá hợp đồng nhẹ hơn nhiều lần so với giá mua lẻ) với hãng nước đá ngoài phố. Chỉ cần nhân sự và xe đạp thồ về. Có đá là phải có biện pháp giữ cho lâu tan, cũng không khó. Trước tiên là đóng một cái thùng gỗ thật lớn trét dầu bên trong cho kín hơi. Sau là tìm trấu và mạt cưa để ủ đá trong thùng giữ độ lạnh. Toàn đồ phế thải vừa bán vừa cho cũng không thèm đau lòng. Trấu thì phải xuống tận vùng Đức Trọng tốn chút tiền xe chuyên chở. Mạt cưa thì xuống trại cưa Ngọc Dung gần phố, thồ về. Việc quan trọng, cuối cùng, là đặt làm một cái bàn bào nước đá. Bàn bào bằng gỗ thì đã có bác Hai Mộc vừa…qui cố hương đó, chỉ hì hục vài tiếng đồng hồ là xong. Lưỡi bào bằng thép thì tới chú Tùng thợ rèn, hì hục lắm thì cũng mau hơn hay lâu hơn bác Hai Mộc vài phút, cũng là xong.
Tính tới giai đoạn hai là nước xi rô xanh đỏ tím vàng. Đi qua Tây qua Mỹ làm chi, chỉ cần đích thân chú tôi nhảy lên xe đò Minh Tâm về gặp mấy chú ba ở Chợ Lớn. Ở đó thì xanh đỏ tím vàng đủ hạng. Hạng nhứt . Hạng nhì . Hạng ba . Muốn bao nhiêu cũng có. Mua nhiều thì tính giá sỉ, xoa bụng cười hề hề, tặng thêm một chai níu khách.
Tính ra, chịu khó bôn ba xoay trở rồi bỏ ít vốn vô đó mà lời khẳm ghe. Nói theo lời anh Kiệt, chú quả là tay hảo thủ, bất ngờ trở cú tuyệt chiêu hoàn toàn mới lạ để bà con tranh nhau đóng tiền cho chú thả được một cặp heo vô chuồng, gầy thêm hai cặp gà, mua tặng cho thím một chai nước hoa Bông Hồng, hai cái lược ngà ( một cái răng sưa để chải tóc, một cái răng sít để chải chí), một chai dầu gội đầu Bồ Kết, một đôi guốc gỗ sơn bóng có in chìm hoa Sen. Quan trọng nhứt là một gói giấy cho thím bỏ lẹ vô tủ khóa cẩn thận. Tới lúc này thì thím cười. Chú giả bộ hỏi thím còn chê đá “giận” với “ xi rồ” không?. Thím háy chú một cái rồi giả lơ làm như là không nghe. Thiệt là! Đàn bà là chúa giả lơ. Đàn ông là vua giả bộ.
Tôi thì không giả lơ mà cũng không thèm giả bộ, cứ giả thiệt đứng xớ rớ chờ ở gian hàng của chú. Cứ đứng chình ình trước mặt chú thì chú không thể nào giả bộ không thấy được cho nên chú phải nhận cho một cục nước đá đậm màu xi rô đưa tận tay. Giả bộ cười vui và cũng giả bộ quên lấy tiền bỏ vô hộc. Bề nào cũng phải nể tình Ba tôi, người đã nói một câu nói lót đường cho chú hốt bạc. Tính ra một ngày tôi giả thiệt cũng tới bốn năm lần. Lần nào chú cũng “tiếp chiêu” gọn, đẹp. Thiệt, đúng là tay hảo thủ!
Vừa mút đá nhận, vừa coi đá gà. Hết một độ gà thì lại vội vàng chạy qua gian hàng chú mà giả thiệt đứng sớ rớ. Khi chú giả bộ cười vui đưa cục nước đá nhận là vòng ngược lại qua sân gà cho kịp độ mới.
Sôi động, hào hứng nhất Hội Làng là sân đá gà. Anh hùng tứ chiếng khắp mọi miền nườm nượp kéo về, tay ôm con gà dị tướng, lông lá trụi lủi mà da dẻ thì đỏ ngầu. Ở xa tít dưới vùng Trạm Hành, Đơn Dương, Đức Trọng cũng lặn lội tìm lên. Ở mút tận Lạc Dương cũng tìm xuống. Bà con bu đông như kiến, la ó cãi vã nhau om sòm. Mấy tay chuyên nghề cá độ thì coi như ăn ở tại chỗ, bám sân từ sáng cho cho tới giờ mản cuộc. Quần áo xốc xếch, tóc tai bờm xờm thiệt chẳng giống ai.
Ở Xóm nghèo quê tôi, nuôi gà đá truyền đời là phải kể tới ôn Tôn Lạc. Sống gần như nghề độ nhật là chú Sáu Cử, chú Phú. Sau này, lớp hậu duệ, có dượng Đát là tay nuôi gà đá bài bản, nghiên cứu sách vở. Đã từng chiếm giải nhiều độ gà suốt mấy Hội Làng Xuân. Lớp đàn em nữa, có ông bạn Cu Lu ( là tên thường quen gọi ở Xóm chớ ra khỏi lằn ranh Xóm nhỏ là Hồ Ngọc Sơn chớ không có lu, vại gì nữa). Có chú em Tôn Thất Thuận (con của ôn Tôn Lạc, rể của võ sư Sáu Trọng). Gà của chú thì tôi chưa coi được trận nào nhưng có nhiều lần đi coi chú thượng đài tỉ võ ở sân vận động Thị xã.
Cũng còn mấy tay nữa nhưng mà thuộc loại nuôi gà tài tử.
Hội Làng Xuân mà không có sân đá gà thì đâu có ý nghĩa gì! Tôi cũng góp mặt cho vui vậy thôi chớ không đành lòng nhìn cảnh bại vong của mấy con gà xoải cánh, quỵ chân, lê lếch, máu me nhầy nhụa...Thắng thua hào hứng là từ những đồng tiền cá độ của những tay chuyên nghề và cả những tay ăn theo. Tôi có đứng đó chẳng qua là vì sân gà gần bên gian hàng đá nhận xi rô. Chạy qua , chạy lại cho tới lúc mút đá đã thèm là tìm đường đi qua gian hàng khác…

Hội Làng chỉ đúng ba ngày rồi im ắng nhưng vẫn còn giữ mãi hình ảnh vui nhộn cho hết tháng Giêng.
Đến bây giờ, tôi cũng không nhớ vào khoảng thời gian nào, không khí sôi nổi rộn ràng của Hội Làng Xuân chìm khuất và mất dấu trong những ngày Tết.
Có lẽ là từ ngày cuộc sống làng quê đã dần thay đổi theo đà văn minh tiến bộ. Những con đường đất gập ghềnh đã được san bằng, trải nhựa. Ánh điện đã tràn tới đuổi xua những ngọn đèn dầu leo lét. Cục đá nhận xi rô đã đi vào quên lảng. Đã có nước đá trong những chiếc ly thủy tinh khi uống beer nhãn hiệu con Cọp hay nước ngọt hiệu Vina, Phương Toàn.
Trống chiêng cũng thưa thớt dần không đủ sức kéo ùa theo không khí Tết. Chú Tiết Nhơn Quý đã đổi “gu” màu rượu trắng ra màu nâu đậm của các vị thuốc Bắc phương. Bộ quần áo bà ba đen bạc cũng mất dấu để nhường cho cho bộ quần áo mang dáng vẻ Tây phương. Con gà đất đâu rồi trên vuông chiếu lớn!
Con heo đất cũng lần hồi biến dạng. Dáng vẻ tân kỳ, màu mè sặc sỡ hơn, trơn láng hơn, to nhỏ đủ hạng . Cuối cùng rồi cũng bỏ đi đâu, tìm không ra!
Tôi cũng đi, không về Xóm nhỏ. Hàng xóm láng giềng lớp còn ở lại, lớp bỏ ra đi, đi về đâu không biết trong cuộc bể dâu. Hàng năm, những ngày Tết, tôi chỉ còn lại trên vuông chiếu đời của một thời thơ ấu, những hình ảnh gìn giữ cả một trời quê quyện ngát hương trầm và mùi pháo Tết.
Tháng Giêng, Hai ở đây thì quê nhà đã là cuối Chạp, chuẩn bị sẵn sàng để tống cựu nghinh tân.
Rừng Mai hồng giữ vẻ dáng mùa Xuân níu kéo những cái liếc thầm mang ước lệ của Xóm quê xưa, nay đã không còn…
Nhưng vẫn còn trong tôi, vẫn còn, trong lòng những người cùng chung Xóm cũ hình ảnh rộn rịp đông vui khi tiếng pháo khai hội ngày Xuân nổ giòn níu kéo thân tình cho nhau suốt ba ngày Tết.
Những người xưa cũ nay đâu ! Có còn giữ lại mùa Xuân như tôi đang giữ hay là như con heo đất nghe “bộp” hay “bụp” một tiếng thiệt quá đã mà không thấy đồng tiền nào túa ra…Bởi có dành dụm gì đâu ! Hay có dành dụm nhưng cứ móc dần ra tiêu pha ngày tháng mất rồi !
Cuối cùng, chỉ là trống vắng…

Những ngày Tết quê xa
Hiên Trăng Brookhurst

tháng 1 23, 2009

TÌNH MỘT THUỞ


em qua phố nắng hanh vàng se lạnh
anh con dốc chúi tình bay gió chướng
cuối tháng-mừơi-hai đời cho vay mượn
chút hương xuân thơm lựng tới ra Giêng

nắng ấm về cho đẹp dáng chiều nghiêng
con Én ngày Xuân chao lòng phố nhỏ
em son phấn níu tình anh rất nhớ
những mùa Xuân khi còn Tết quê nhà

ngó chừng lâu bây giờ em ngó lạ
má phấn hồng môi thắm mượt màu son
anh bối rối chiều xuân con dốc nhỏ
dắt em qua đường phố chiều ba mươi

chiều ba mươi nên chợ vắng thưa người
nắng hiu lặng quyện gió ngần se lạnh
anh nắm tay em đuổi đời cô quạnh
ngó nhìn đâu cũng thấy cả mùa Xuân

chuyện ngày xưa còn giữ níu bâng khuâng
em đâu biết anh còn thương thuở đó
thuở hai đứa lòng ưng chưa dám ngỏ
nắm tay nhau mà cứ rụt rè nhau

tới bây giờ thương nhớ bởi từ sau
khi nắm tay em nắm hoài không thả….

01/09

tháng 1 22, 2009

MÙA XUÂN NHỚ


Mùa Xuân. Cây nở hoa, người trổ nhánh đời để nuôi thêm tuổi. Tuổi càng cao cây đời càng tỏa rộng, che mát những tháng ngày trường trải. Mỗi ngày mỗi tháng mỗi năm kết chuỗi thời gian. Chuỗi thời gian có hột bóng mờ. Có hột đốm đồi mồi. Có hột chẻ chân chim. Đan kết, níu kéo nhau thành một chuỗi dài...
Hôm trước ngồi ở quán cà phê với anh Huân, nhìn chéo qua khu chợ Á đông nhộn nhịp người mua kẻ bán. Trước chợ bày kín một dãy hoa Mai, hoa Đào tươi thắm. Nhìn kỹ, thấy vô hồn. Thì ra toàn là hoa giả ! Cũng lá cũng cành đan kín những chùm hoa rực rỡ sắc màu. Mới nhìn, ngỡ là hoa thật. Lòng cứ rộn ràng những thương nhớ ngày Xuân ở một nơi chốn xa xăm thuộc về dĩ vãng. Nhìn kỹ, là hoa giả. Nỗi rộn ràng vừa mới nhen nhúm đã vội tản mác, tan loãng thành nỗi giận buồn vô cớ. Thiệt là “ lộng giả thành chơn “.
Giật mình nhớ lại, ở thời điểm này, trên đất nước trái gió trở trời cả về nghĩa bóng lẫn nghĩa đen, làm gì có hoa Mai hoa Đào cho mình ngắm. Chỉ là thỏa mãn cái thị hiếu, xoa dịu lòng thương nhớ về một mùa Xuân của những người xa xứ. Nặng nề tính chất thời cơ thương mại.
Bây giờ là tháng Hai trên đất trời xa lạ, người ta đã ăn uống nhảy nhót vui mừng tiễn đưa năm cũ, đón chào năm mới từ lâu lắm rồi. Vậy mà ở quê nhà, đang là những ngày cuối Chạp. Bà con đang chuẩn bị náo nức đón mừng Năm Mới. Không khí chắc hẳn là rất rộn ràng...
Tôi nói với anh Huân những điều vừa chợt nghĩ đến về những ngày Xuân quê nhà và nhân tiện bày tỏ ý nghĩ ngộ nghĩnh về cái chuỗi thời gian có hột bóng hột mờ hột đồi mồi hột trổ chân chim. Anh Huân yên lặng ngồi nghe, dáng trầm tư như nhà hiền triết. Khi tôi đã dứt lời, anh vẫn ngồi yên lặng thật lâu rồi mới nói :
- Khi anh qua đây, những ngày Tết đến ai cũng buồn muốn khóc. Nỗi nhớ nhung cuộn xoắn làm tê điếng cả lòng. Nhìn cái gì cũng thấy nhớ, cứ thẩn thờ. Thời gian dần qua, nỗi nhớ cứ nhạt dần lúc nào không biết nữa. Tệ quá, bây giờ thì dường như một số người cảm thấy dửng dưng. Chẳng biết đó có phải là cái hột mờ trong chuỗi thời gian mà chú vừa mới nói đó không?. Chắc là nhiều khi họ cũng nhớ lắm, nhưng nỗi nhớ chỉ là bàng bạc hơi sương chưa đủ độ ấm nồng...Chú viết văn làm thơ, tâm hồn nhạy cảm, khơi lại chút ấm nồng để nhớ chơi...Đừng như đám hoa Mai hoa Đào lộng giả thành chơn. Mua về nhà chưng nơi phòng khách, ngày nào cũng thấy mùa Xuân. Riết rồi nhàm chán, xếp hạng như là vật dụng chưng bày trong nhà không hơn không kém. Ý niệm về ngày Xuân cũng tan loãng, chỉ còn lại cái cảm giác ấm lạnh nắng mưa theo hai mùa cho một năm. Tệ quá...
Anh thừ người, chậc lưỡi. Tôi cười nói với anh :
- Nhưng mà ở thời điểm trái ngược này, tìm một cành Đào hay cành Mai làm gì có. Mà nếu có thì giá cả sẽ làm tối mày tối mặt làm sao thấy được mùa Xuân. Tại sao không về quê hương một chuyến trong dịp này tha hồ nhìn ngắm mà tìm lại cảm giác ngày xưa...
Anh nhìn tôi hơi bực bội :
- Nói như chú mày thì nói chuyện làm gì. Đừng làm nhau mất hứng nghe.
Tôi cười giả lả :
- Anh nói vậy chớ chuyện ngày Xuân thì làm sao mà hết. Ở quê nhà, nội cái chuyện ăn Tết thôi cũng đã nhiêu khê. Chuẩn bị cả mấy tháng trời chỉ để vui hưởng ba ngày Xuân. Còn ở đây vui lắm cũng chỉ được hai ngày cuối tuần. Nếu Tết mà trúng những ngày giữa tuần thì cũng rán đợi cho tới hai ngày nghỉ cuối tuần. Nỗi chờ đợi đâu có nôn nao giữa không khí rộn ràng chuẩn bị đón Xuân. Mà có gì đâu mà chuẩn bị. Mọi thứ đã bày bán sẵn, chỉ cần bỏ ra một khoảng thời gian ngắn trong khu chợ Á đông là đầy đủ...

Tới đây thì anh cười thoải mái, hết vẻ bực bội, góp vào câu chuyện :
- Đầy đủ còn hơn hồi tụi mình còn ở quê nhà. Đầy đủ quá chừng. Đâu phải như cái hồi...
Anh ngưng lại, dáng trầm tư. Tôi biết anh đang nhớ cái hồi chấm mút xương gà uống rượu, loại rượu đế nồng nặc mùi cồn, với đám bạn bè đón Xuân hưởng Tết. Tôi nhắc lại anh nghe những hình ảnh ngày xưa đó. Anh bật cười khoái chí, vỗ vai tôi :
- Cám ơn chú đã nhắc anh nghe lại chuyện ngày xưa đó. Hình như hồi đó chú còn ở tuổi đi lượm pháo xì, giành giựt la khóc om xòm, sao còn nhớ hay vậy chú em ? Thì giờ đâu mà giành pháo, thì giờ đâu mà ngó mấy tay nhậu để nhớ cho tới bây giờ?
Tôi cười, thêm đà câu chuyện :
- Còn nhớ anh mút cái xương cẳng gà sạch bóng. Anh nhai hai đầu sụn rồi ngắt ngọn rau răm quẹt vô dĩa muối tiêu, rồi...
Thấy anh hào hứng chồm người về phía tôi, hai mắt sáng rỡ, hỏi dồn dập :
- Ủa, có vậy hả? Rồi sau đó anh làm gì nữa, chú em?
Đang say đà câu chuyện bị anh làm mất hứng, tôi đâm cáu :
- Làm gì nữa? Bộ anh làm mà anh không còn nhớ sao?
Anh cười ngượng nghịu :
- Nhớ. Nhớ chớ sao không! Nhưng mà...
Sẵn trớn, tôi cáu thêm :
- Nhớ rồi thì hỏi làm gì! Ngồi xuống đi ông anh. Đổ ly cà phê rồi kìa !
Anh liếc ly cà phê đổ tràn ra bàn, tiu nghỉu ngồi xuống :
- Bậy quá. Kêu ly khác nghen. Gắng ngồi uống xây chừng kể chuyện cho vui. Lâu quá, có dịp được nghe lại...
Rồi làm như không có chuyện gì, anh nắm tay tôi giật giật :
- Mà sao chú nhớ từng chi tiết hay quá vậy, chú em? Chuyện này từ mấy chục năm qua năm nào anh cũng nhớ. Bưã nay thiệt anh không ngờ tự nhiên có thêm chú nhắc tới.
Anh lại giật giật tay tôi, hỏi dồn :
- Mà thiệt chú còn nhớ phải không? Chú xác nhận giùm anh đi...
Bàn tay anh níu chặt lấy tay tay tôi như chừng sợ tôi sẽ bỏ đi. Đôi mắt anh đờ đẫn, bất động nhìn về phía trước. Anh lẩm bẩm những câu gì nghe không rõ rồi gật gù cười mỉm, mắt vẫn đăm đắm. Tôi đâm hoảng trước điệu bộ có vẻ bất thường, vội nắm bàn tay anh giật nhẹ :
- Anh Huân. Anh Huân...
Kêu tới hai lần anh mới giật mình ngơ ngác nhìn quanh. Khi thấy gương mặt có vẻ hốt hoảng của tôi, anh cười trấn an :
- Không có gì đâu chú em. Anh đang thật sự xúc động. Đúng là trời xui đất khiến lại gặp được chú em hôm nay. Câu chuyện chú vừa kể đã mở cho anh một lối thoát. Biết chừng đâu có thể đem đến cho anh một mùa xuân trọn vẹn...
Nghe anh nói, nhìn vẻ mặt anh biểu lộ sự xúc động, tôi biết anh không đùa. Như rơi vào tâm trạng hụt hẫng, tôi bối rối :
- Chuyện cái chân gà nhỏ xíu, buổi nhậu như là kỷ niệm cũng nhỏ nhoi trong những kỷ niệm cuộc đời. Đâu có gì lớn lao mà anh nói nghe giật mình vậy, anh Huân.
- Đó. Đó. Chú vừa mới nói với anh về cái chuỗi thời gian có hột bóng hột mờ hột chẻ chân chim, chú quên lửng đâu rồi? Ở đời, có những cái người ta tưởng mất đi rồi mà lại tìm thấy lại. Rồi cũng có những cái tưởng nắm chắc trong tay mà cuối cùng cũng tuột khỏi tầm tay. Những kỷ niệm đôi khi cứ tưởng là nhỏ nhoi để rồi dễ bỏ quên không đáng nhớ nhưng thật ra là cả một gia tài trân quý. Cái chân gà đâu có nhỏ xíu như chú tưởng. Cả kỷ niệm mà chú vừa nhắc nhớ với anh, nó cũng lớn quá chừng! Nhưng mà thôi ! Chuyện đó nói sau, chuyện khá dài...
Rồi anh mỉm cười, vui vẻ :
- Mà tình cờ, thiệt hết sức tình cờ, bữa nay nghe chú nhắc tới câu chuyện ngày xưa. Sao tự nhiên anh linh cảm là chú có thể giúp anh tìm lại được những gì anh tưởng đã vuột khỏi tầm tay.
Thấy gương mặt ngớ ngẩn của tôi, anh lại bật cười lớn, hào hứng thêm :
- Coi kìa! Đang vui mà nhìn vẻ mặt ngớ ngẩn của chú anh lại vui thêm. Đừng nóng, đừng nóng chú em ơi! Nắm được chú em đây rồi dễ gì mà anh buông bỏ. Chỉ cần chú em xác nhận một lời, chỉ một lời thôi, là anh ôm cả một mùa Xuân...
Trong lòng không được thoải mái, tôi ngắt lời anh :
- Không chừng đi lạc đề rồi nghe, ông anh! Đang nói chuyện mùa Xuân anh lại cứ vòng vo triết lý gì đây? Hỏi thiệt anh nghe. Anh đang nói tới chuyện gì vậy ?
Anh vuốt vuốt lưng tôi, cười dấu dịu :
- Chuyện đời anh đó mà, chú em. Từ lúc nghe chú nhắc tới kỷ niệm một ngày xuân xưa là anh biết cuộc đời anh sẽ qua trang mới. Nói như vậy là chú dư sức hiểu tầm quan trọng tới mức nào.
Anh lại nhìn tôi, vẻ thành khẩn :
- Quan trọng lắm chú em ơi ! Nhưng mà trước khi vào câu chuyện, anh xin lỗi chú em cho anh hỏi một vài điều. Anh muốn cho thiệt chính xác trước khi anh đặt vấn đề với...với...
Anh ngập ngừng giây lát rồi nói tiếp :
- Không phải là anh không tin lời chú đâu nghe. Nhưng anh muốn chắc ăn cho nên chú đừng phiền khi anh đặt những câu hỏi để chú...
Tới đây thì anh vò đầu, có vẻ bối rối :
- Chà... chà...khó nói quá, khó nói quá! Không biết phải gọi là kiểu gì đây? ( Anh nhíu mày bặm môi suy nghĩ một lúc rồi hí hửng). À, phải rồi! Là phỏng vấn đó, chú em. Chú quen chuyện này rồi mà...
Một phần vì tò mò muốn biết câu chuyện về đời anh sẽ như thế nào. Lại nghe những lời nói và vẻ mặt thành khẩn của anh, tôi không nỡ :
- Theo như kiểu của anh thì đúng là hỏi cung chớ phỏng vấn nỗi gì! Nhưng mà thôi, hỏi gì cứ hỏi. Nhớ tới đâu, biết tới đâu tôi trả lời tới đó mà đừng có vòng vo nghe ông anh !
- Không vòng vo. Không vòng vo đâu. Chỉ mấy câu ngắn gọn thôi nhưng nếu mà chú xác nhận đúng thì thiệt là mở cho anh con đường đi tới, sẽ cho...
- Thôi...thôi...Lại vòng vo nữa! Nãy giờ không biết tôi đã cho anh mấy mùa xuân rồi! Vô đề đi ông anh ơi!
Anh cười ngượng nghịu rồi tằng hắng lấy giọng :
- Chú em này nhạy bén thiệt. Thôi bây giờ anh hỏi chú bữa đó anh nhậu tại nhà ai ?
- Ở nhà anh Đen. Trưa mồng Một Tết
Anh úp hai tay lên bụng thoải mái ngả người về phía sau, mắt lim dim, gật gù :
- Sau này là Lê Đán. Gặp nhau rồi chia tay ở Ngã Ba Biên. Thằng lên ngược, thằng về xuôi. Mất tăm mất tích từ đó...
Không chừng anh lại kéo dài câu chuyện chiến chinh vạn dặm lê thê, tôi ngắt lời :
- Rồi, câu hỏi thứ hai.
- Ừa, mà chú nhớ bàn tiệc lúc đó có mấy người?
- Để nhớ coi! À, ngoài anh Đen là chủ nhà, có ông em là anh Đỏ. Rồi anh Thuận con chú Đính. Anh Túc con bác Sung. Rồi anh gì con ông thầy Thiện nhà ở trước mặt chú Hai Tín có cây Dầu Gió. Lâu quá quên tên...
Anh cười, gật gù :
- Đúng rồi. Đó là tay Xuân. Tay này lưu lạc giang hồ tới tận miền Nam chớ ít gì! Lần gặp nhau ở cầu Bắc Mỹ Thuận...
Biết anh đang say đà hoài niệm không chừng lan man câu chuyện tới tận...Cà Mau, tôi phũ phàng cắt gọn :
- Nửa buổi nhậu, có thêm anh Lập con thím Khiêm tới phá mồi. Nghe mấy anh trong bàn, nhất là anh, cự nự um sùm...
Nghe tới đây, anh cười ngất :
- Cố tổ cái thằng đó. Hắn có biết uống gì đâu! Uống nước trà còn muốn say nữa mà! Bữa đó hắn làm “sụm” dĩa thịt gà. Muốn kéo dài buổi nhậu mừng Xuân, đành phải ngậm nhín mấy cái xương gà. Ủa, mà lúc đó chú làm gì mà quan sát tận tường vậy?

Tôi cười ngượng nghịu :
- Bây giờ nói thiệt, anh đừng cười. Bữa đó đi lượm pháo xì nghe mấy anh cười nói râm ran tôi ghé vô coi thử. Thấy trên bàn có dĩa thịt gà trộn rau răm ngon lành quá. Tôi thèm ứa nước miếng, cứ đứng vờn qua vờn lại không chừng mấy anh kêu lại cho gắp vài đũa, đỡ thèm. Nghe nói mấy tay nhậu thảo ăn thảo uống lắm chớ đâu có ngờ mấy anh rít rịt. Sau cái lúc anh Lập tới phá mồi tôi thấy ngó bộ không được xơ múi gì nên bỏ đi. Bỏ đi mà bụng tức anh ách...
Anh thở dài, chậc lưỡi như là đang chia xẻ nỗi bực tức của tôi :
- Chú mày thiệt dại, sao lúc đó không ra hiệu hay là bấu ngắt gì anh để cho anh biết. Mấy đũa thịt gà thì nhằm nhò gì! Mà lúc đó chú vô hồi nào, vờn qua vờn lại lúc nào anh có thấy đâu !
Tôi còn nghĩ bực mình mấy đũa thịt gà không được gắp, cằn nhằn anh :
- Tôi vô hồi nào, ra hồi nào anh làm sao biết! Lúc vô, anh cụng ly chan chát, nói cười râm ran như pháo Tết. Lúc ra thì anh gật gà gật gù, mắt nhướng hết nổi thì còn thấy được gì?
Anh ngồi xụi lơ, nghe tiếng anh thở dài nhè nhẹ:
- Đó, cũng tại vì mắt nhướng hết nổi mới bầm giập thương đau cho tới bây giờ. Hồi đó, phải biết trước, anh thà đi lượm pháo xì với chú chớ không thèm ngồi ôm ba ly đế cay nồng với lại mút mấy cái xương gà tới rát lưỡi để phụ lòng người ta...
Tôi ngạc nhiên ;
- Cái anh này nói lạ. Lượm pháo xì đâu có dễ như anh nghĩ, phải chạy tới chạy lui giành qua giựt lại mệt đứt hơi. Đâu có như anh ngồi thoải mái, cười nói tự do lại có sẵn thức ăn gắp đã đời rồi uống tới mệt nghỉ. Nếu như mà có say xỉn thì cứ việc nằm thẵng cẳng làm một giấc cho tới sáng thì phụ lòng ai ?
- Đó, cũng tại vì nằm thẳng cẳng làm một giấc cho tới sáng mà còn sật sừ cho tới bây giờ. Phải hồi đó, biết trước...
Tôi chịu không nổi lối nói mập mờ chẳng ra đầu đuôi khúc ngọn của anh, cằn nhằn :
- Biết trước biết sau gì? Anh làm tôi muốn sật sừ thì có. Xin làm ơn hỏi tiếp, đừng để mất ngày Xuân. Nãy giờ anh ôm mùa Xuân đã đời, giờ để tôi ôm với. Xế chiều rồi, ông anh
Anh chống tay vào hai thành ghế ngồi thẳng dậy, giọng hào hứng :
- Hỏi gì nữa đâu! Chú xác nhận chỉ bấy nhiêu đó là quá đủ. Anh đâu có ngờ là hôm nay tình cờ tìm được chú, nghe chú kể ngọn ngành câu chuyện ngày xưa. Thiệt như là cho anh cả một mùa...(anh thoáng giật mình, sực nhớ, nhìn tôi cười ngượng nghịu). Cố tổ nó, lại vòng vo nữa rồi! Xin lỗi. Xin lỗi nghe, chú em. Nhưng mà anh dặn trước, nếu như mai này có ai hỏi về cuộc nhậu mùa xuân năm đó thì chú xác nhận giùm anh. Chỉ cần chú xác nhận một tiếng, một tiếng thôi, là ...là...
Thấy anh ngập ngừng, tôi cười nới hớt :
- Là anh ôm cả một mùa Xuân chớ gì ! Tới lui cũng chỉ chừng đó. Nói thiệt với ông anh, nhắc nhớ chuyện cho vui vậy thôi. Chuyện có quan trọng gì mà anh bắt tôi phải xác nhận nghe ớn lạnh quá. Mà xác nhận với ai đây?
Bỗng dưng anh cầm lấy tay tôi, siết nhẹ :
- Là chị Tuyết Minh đó! Chú còn nhớ chị Tuyết Minh không?
Tôi thật sự ngỡ ngàng khi nghe anh bất ngờ nhắc đến chị Tuyết Minh.
Chắc là phải có một sự liên hệ gì đó. Gần mấy mươi năm rồi còn gì, nhắc nhớ với một tình cảm ấm nồng đặc biệt thì chỉ có tình yêu thôi.
Chị Tuyết Minh của một thời dậy sóng ba đào ở cái Xóm nhỏ. Chị làm cho mấy chàng trai nhồi lên dập xuống muốn nhừ điếng con tim vì cái lối ỡm ờ tình cảm lúc xa lúc gần, lúc có lúc không của chị. Tôi không thể diễn tả chính xác điểm đặc biệt , chỉ riêng chị mới có, qua cung cách điệu bộ, lời nói tiếng cười với những chàng trai mà chị gặp. Nhưng tôi phải xác nhận một điều là gần như tất cả những chàng trai sau một đôi lần gặp chị đều mang một tâm trạng chung là chị đang yêu mình.
Được một người con gái đẹp như chị yêu thì dù trời có u ám đục ngầu cũng thấy sao mà đẹp. Cũng thấy mình tự nhiên đẹp trai hẳn lên, hay cho dù nhìn ngó trong gương không đủ can đảm cho là mình đẹp trai thì chí ít cũng cho là mình có duyên. Bởi vì nếu không đẹp trai, không có duyên thì sao người ta lại yêu mình ! Lùn cũng có cái duyên của lùn. Cả mấy anh mắt lé, răng hô, chân chữ bát, vòng kiềng cũng đều thấy mình có duyên nổi duyên ngầm xứng đáng được đứng trong hàng để chị chọn lựa. Tất nhiên là phải chọn lựa một người xứng đáng nhất trong những người xứng đáng để mà nâng khăn sửa túi chớ. Không lẽ chọn hết trơn !
Nhưng mà chị có chọn ai đâu !
Cuối cùng chị chọn chồng xa và khăn gói theo chồng từ độ ấy !
Và cũng từ độ ấy, mấy chàng trai trong xóm vỡ mộng, mang tâm trạng của kẻ bị phụ tình, trôi giạt tứ tán khắp nơi.
Vậy thì anh Hiên ở đâu trong trò chơi tình cảm của chị ?. Có ở trong hàng ngũ chờ được chọn lựa, có được dịp vỡ mộng như quả bong bóng xì hơi không ?
Tôi nghĩ là không. Vì khi anh đứng sắp hàng để chị chọn lựa thì chính anh là người đứng đầu cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng .
Nếu sắp hàng theo vị trí từ cao xuống thấp thì anh chính là người phải đứng đầu. Bởi vì anh cao to lắm. Sáng nào cũng đều đặn chạy bộ quanh xóm lại còn tập tạ. Thân hình anh cuồn cuộn những sớ thịt săn chắc. Mỗi lần anh cung tay lấy gồng, hai đứa con nít cỡ tôi đu bám tòn teng chẳng thấm vào đâu. Anh đứng đầu hàng là cái chắc. Mà nếu như không cần sắp theo vị trí từ cao xuống thấp, anh cứ ngang bướng đứng hàng đầu thì đố có tay nào xô kéo giành giựt với anh cho được.
Còn nói về tiêu chuẩn để chọn lựa một nơi nương tựa chắc ăn thì không riêng gì người đẹp chọn chồng mà cả ba mẹ vợ tương lai nữa cũng nháy thầm con gái mình chấm điểm anh luôn. Bởi vì anh đẹp trai, hiền hậu và cái chính là học giỏi lắm. Năm nào cũng được phần thưởng. Đã có hai lần nhận phần thưởng danh dự tại tòa Thị sảnh do đích thân ông Thị trưởng trao với bằng khen và cái bắt tay làm nhức đầu sổ mũi mấy tay biếng lười trong Xóm. Quý bậc sinh thành của mấy tay lười biếng học hành lúc nào cũng nhắc tới tên anh để làm gương. Cứ nhắc tới nhắc lui hoài nếu không nhức đầu thì cũng sổ mũi là cái chắc...
Giờ đây, anh hỏi tôi còn nhớ chị Tuyết Minh. Tôi giật mình. Vậy là anh có đứng trong hàng ngũ để chị lựa chọn. Đứng hàng đầu mà, sao lại...Tôi làm như người đã biết chuyện, hỏi anh :
- Hồi đó anh chê chị anh bỏ làng xóm anh đi, sao bây giờ còn nhắc ?
Anh mỉm cười, ánh mắt nhìn xa xăm ;
- Chắc là chú nhớ lộn rồi. Sau khi chị lấy chồng anh mới ra đi mà. Anh chờ đợi chị nhưng chị...
Rồi anh lắc đầu thở dài, nói tiếp :
- Hai đứa cũng chỉ vì tự ái mà giết chết tình yêu. Hồi đó, phải chi anh...
Anh ngừng nói, cúi đầu, lại thở dài. Tôi thầm chia nỗi buồn của người tình lỡ . Một khoảng thời gian khá lâu, anh trầm giọng kể :
- Cơ sự cũng từ cái buổi nhậu ngày Xuân đó. Chú cũng biết mà, anh có uống bao giờ đâu. Lần đó bạn bè mời mọc lại sẵn vui ba ngày Tết, từ chối sao được. Chuyện trò vui vẻ, chén chú chén anh quên mất buổi hẹn tối đó với chị. Số là để tránh sự nhòm ngó, chị hẹn anh ở một chỗ rất là vắng vẻ, đó là cái cầu ván trước trường Đa Nghĩa tắt ngang qua đường Phan Đình Phùng . Chị cứ nhắc tới nhắc lui là đừng để em chờ mất hên ba ngày Tết. Khổ quá! Lúc đó sao anh không nhớ hè ? Rồi lúc say xỉn nằm thẳng cẳng cho tới sáng anh cũng chẳng hề nhớ là mình có buổi hẹn đêm hôm qua với người yêu. Quên lửng chú ơi! Sau này đọc nhiều bài viết anh mới biết là con người ta có nhiều lúc tự nhiên quên hẳn là mình đang và sẽ làm cái gì. Báo chí gần đây cũng có đăng tin nhiều trường hợp bỏ con nhỏ trong xe cho tới chết ngộp. Là họ quên đó, chú ơi! Trường hợp anh chắc cũng là vậy chớ đến nỗi gì say xỉn mà lú lẫn cở đó. Cho dù có tệ đến vậy thì sáng hôm sau cũng phải nhớ lại chớ ! Vậy mà quên lửng luôn.Tới xế chiều, diện áo quần bảnh bao hí hửng tới thăm và chúc Tết người yêu. Mà lúc đó cũng không nhớ gì đâu nghen. Thấy nhà trước sau vắng vẻ, cũng mừng vì có dịp chuyện trò tự nhiên thoải mái. Anh gõ cửa lần thứ hai thì cửa mở.Thấy chị, anh mừng rỡ chồm người bước vô thì cũng vừa lúc cánh cửa đóng nghe rầm một tiếng. Anh bật mạnh người về phía sau.Trời ơi, chú tưởng tượng được không ? Cái cánh cửa đập mạnh vào mặt anh tá hỏa. Anh bật người về phía sau rồi hỏng chân ở bậc hiên nhà lăn mấy vòng ra tuốt giữa sân. Mắt nổ đom đóm, máu mũi dầm dề, đau thốn tận tim gan nằm lặng người cả mấy phút tưởng là ngất xỉu. Vừa buồn, vừa giận, vừa đau lại ngượng ngùng xấu hổ, anh bò ra cổng chờ lúc vắng người vọt chạy về nhà...

Câu chuyện anh kể quá bất ngờ và hi hữu. Tự nhiên tôi ái ngại nhìn lén cái mũi của anh. Không biết có phải vì tưởng tượng không. Sao tôi thấy mũi anh hình như là nó hơi vẹo đi một chút. Cánh cửa mà đập vào mặt thì nhất định là cái mũi phải chịu đau thương trước nhất chứ còn gì nữa ! Hình như đoán được ý nghĩ của tôi, anh mỉm cười ;
- Không sao, chỉ ăn cháo một tuần thôi. Nhưng mà có điều đêm đó lên cơn sốt tại vì đau quá chừng. Trong cơn đau tự nhiên nhớ lại lời hẹn hò. . Cơn đau có phần lắng dịu bởi nhận thấy mình có lỗi với người yêu. Nhưng mà khổ nỗi, tâm lý con người có nhiều cái phức tạp lắm chú ơi. Biết mình có lỗi mà lại càng giận thêm. Giận ở chỗ là ngày nào còn ngọt ngào anh em tình tứ, còn thề non hẹn biển mà nay thì tàn nhẫn tặng cho anh một cú tưởng là vĩnh biệt ngàn thu. Có cần phải làm như vậy không ? Từ đó hai bên cứ im lặng chờ. À, chú có làm hai câu thơ mà anh thích lắm, thiệt là đúng tâm trạng.
Anh trầm ngâm, gật gù đọc nhỏ :
- Phải hồi đó chỉ một lời, dẫu ngắn
Thì có đâu hai đứa lạc đời nhau.
Vậy mà hồi đó có lời nào đâu. Cho mãi đến bây giờ !
Tôi háo hức nhìn anh :
- Ủa, nói như vậy là anh đã có gặp lại chị rồi hả ?
Anh gật đầu :
- Gặp rồi. Gặp gần cả năm nay,trong hoàn cảnh rất đặc biệt. Chồng chị mất đã lâu, các con đã khôn lớn, đã có gia đình. Cũng như anh, chị hiện giờ ở trong một căn hộ nhỏ. Thỉnh thoảng con cháu đến thăm và rồi đi thăm lại con cháu cũng qua thời gian...
Tôi cười :
- Như vậy thì thuận tiện quá còn gì! Ngày xưa đã không có lời nào dẫu ngắn thì bây giờ nói dài hơn. Anh còn chờ gì nữa. Hay là còn sợ cái mũi ăn trầu như ngày nào đó, ông anh?
- Sợ gì nữa, chú em. Đừng giỡn, để anh nói chú nghe. Cơ duyên đưa đẩy, trong một dịp rất tình cờ anh tìm và gặp chị. Chà, cái buổi gặp nhau lần đầu sao mà “phê” dữ. Như là buổi hẹn đầu tiên của một thời trai trẻ. Rúng động cả con tim. Tình yêu sao mà sống dai dữ vậy không biết. Rồi tới lần thứ hai, anh đặt vấn đề bởi vì cũng thấy thuận tiện như chú nhận xét vậy đó. Nhưng mà vẫn còn trở ngại. Trong lòng thì ngó bộ đã ưng rồi nhưng ngoài miệng thì còn cứng cỏi đòi anh phải trưng rõ bằng cớ là đêm đó tại sao không đến chỗ hẹn hò. Tàn nhẫn đến cách chi mà nỡ để người yêu đứng chờ tới khuya cho muỗi đốt sưng mặt xưng mày . Giữa chỗ tứ bề hiu quạnh người cứ run lên vì lạnh, vì sợ ma thứ thiệt hiện lên hớp hồn, rồi ba thứ ma mảnh, ma men bất ngờ sấn tới thì còn chi là cuộc đời con gái...Anh có trình bày nhưng mà chị có tin đâu! Khổ quá chú mày ơi ! Chị còn nói là dứt khoát không tin mấy tay ngồi trong bàn nhậu. Cá mè một lứa, chỉ bày đặt bênh vực lẫn nhau. Mà biết có ngồi nhậu nhẹt với mấy tay đó không hay là hò hẹn với con nào ! Dứt khoát phải có lời xác nhận của người ngoại cuộc, không dính dự gì tới buổi nhậu hôm đó. Mà chú nghĩ coi, còn có ai ngoài chú thím Hai. Ông Bà giờ cỡi hạc quy tiên rồi nói gì được nữa đây. Chỉ còn có tay Xuân, hiện đang ở bên này, xác nhận tới xác nhận lui mà chị có tin đâu...
- Anh nói vậy chớ còn cái vụ anh ăn cháo tới một tuần, chị xí xóa hết? Sao không nhắc lại để đòi...bồi thường chiến tranh. Không chừng chị xiêu lòng...
- Nhắc rồi chú ơi ! Chị nói tại vì hồi đó...lỡ tay hơi mạnh một chút ! Chị nói vậy thì đành đắng lòng mà nghe vậy, lời qua tiếng lại làm chi ! Nhưng mà thôi, chú ơi. Gặp chú đây rồi, anh tin tưởng là mọi chuyện sẽ xuôi chèo mát mái. Thiệt là cơ duyên đưa đẩy, tình cờ lại có chú là người ngoại cuộc, xác nhận được giùm anh. Nè, mai mốt bất ngờ nhận được cú phôn, chú mạnh dạn xác nhận nghen. Vụ này anh phải lo tính gấp để ba ngày Tết còn có dịp mà vui Xuân chớ.
Anh cười thoải mái. Nhìn nụ cười rạng rỡ rất trẻ thơ của anh, tôi cảm thấy bồi hồi thương cảm. Người cùng quê khi gặp nhau trên mảnh đất quê xa còn thấy mừng vui ấm lòng huống chi anh và chị gặp lại nhau trong hoàn cảnh và điều kiện hết sức thuận tiện, làm sao tôi lại không nói ngọt một lời !
Tôi nắm lấy bàn tay anh, vỗ nhè nhẹ :
- Yên trí đi, anh Huân. Tôi sẽ nói rõ ngọn ngành chi tiết.
Anh cũng nắm lấy bàn tay tôi, siết nhẹ.
Và chúng tôi chia tay nhau. Trời cuối năm nắng hanh vàng se lạnh. Cơn gió luồng qua ngõ phố, tản mạn những sợi khói xe khi anh nháy đèn hiệu nhập lòng đường hòa vào dòng chảy ngược xuôi cuộc sống...


*

Bao nhiêu năm lưu lạc đất người, nhìn những mùa Xuân qua, tôi chẳng có gì háo hức. Chỉ thấy bàng bạc một nỗi nhớ không khí Tết quê nhà. Đặc biệt năm nay, tự nhiên sao thấy háo hức nỗi đợi chờ những ngày Tết đến. Tâm trạng đợi chờ giống như ngày thơ dại chờ Tết để được mặc quần áo mới, được lì xì, được ăn uống thả giàn và nhất là được dịp tranh nhau giành giựt những chiếc pháo xì nồng nặc mùi lưu huỳnh, mùi Tết. Những thứ đó đã đi vào dĩ vãng, lung linh huyền hoặc trong trí nhớ mỗi độ Xuân về. Tâm trạng của tôi bây giờ chỉ nôn nao chờ đợi một cú “phôn” bất chợt như lời anh đã hứa. Mong rằng chuyện tình của anh sẽ xuôi chèo mát mái, anh Huân ơi !
Để rồi mồng-một (hay mồng-hai Tết cũng được) anh lại có dịp đến gõ cửa nhà, thăm và chúc Tết người yêu sau mấy mươi năm dài cách trở.
Xin cứ chọn một nụ cười tươi nhất trong vốn liếng những nụ cười đã có.
Và để cho thiệt chắc ăn, khi cửa đã mở rồi, xin đừng ló cái đầu vô trước nghen, ông anh !...

Hiên Trăng Escondido, những ngày chờ Tết

GỞI NGƯỜI Ở HUẾ


Viêm Tịnh, Cao Huy Khanh, Nguyễn Miên Thảo…

nếu có dịp về thăm lại Huế
thể nào cũng tìm gặp các anh
có rượu trà ngon cứ để dành
không phải mất công ra ngồi quán
ra ngồi quán nhiều khi lạng quạng
nói không to cười cũng không rồ
khi hứng khẩu câu giàu câu khó
đọc cho vui đâu hẳn là Thơ
thôi thì cứ dẫu giàu dẫu khó
cứ ngồi nhà góp gạo nấu cơm
lỡ vấp váp câu chi quá trớn
cũng xuề xòa anh đó tui đây

bây chừ có biết mô mà noái
Huế ngó gần mà Huế rứa xa

tôi đi lâu nên ngó chưa ra
Huế còn Huế như hồi xưa ngái !
có thân tình như buổi đi xa
buổi quày lại vẫn chưa hề lạ
chia ly rượu ngày Xuân cho thỏa
tách trà thơm để đó ra Giêng
Huế muôn đời vẫn giữ nét riêng
ai từng có ở qua mới biết
nói mấy câu ni là noái thiệt
bởi lòng tôi cũng Huế chơ mô !
bài thơ viết bên ni bên nớ
hẹn lần về sẽ ghé bên nhau
có dịp ngồi vui chung bữa dậu
đọc thơ cho Huế giựt mình chơi !

Tết này tôi ở đây một chắc
Lỏng lẻo tình ghê, giạt nẻo trời….

01/09