tháng 5 27, 2011

LÁ THUỘC BÀI



Câu chuyện về chiếc lá-thuộc-bài gần như là truyền thuyết. Không ai biết chiếc lá đó hình dạng ra sao, màu sắc thế nào. Chỉ có những người tự đi tìm chiếc lá-thuộc-bài đó như trường hợp của trò Chuyên, trò Thiệt trong câu chuyện này là biết rõ. Nhưng tiếc thay, vẫn phải giữ im lặng và bí mật để cầu lấy sự linh nghiệm. Người viết câu chuyện này, trong thời gian còn là chú học trò bé nhỏ( và chắc chắn là cũng có nhiều những cô chú học trò bé nhỏ đồng thời ) đã có đi tìm chiếc lá-thuộc-bài. Nhưng vẫn phải theo nguyên tắc chung là sự im lặng và bí mật.







Cả lớp yên lặng, nín thở chăm chú theo dõi cây bút của thầy Điền rà dọc theo cuốn sổ điểm danh. Đây là giờ trả bài Học-thuộc-lòng và thầy Điền, đặc biệt, trong giờ này rất là nghiêm khắc. Thầy thường nhắc nhở với cả lớp :
- Các trò phải nhớ cho kỹ lời Thầy. Đã là học thuộc lòng là học thuộc nằm lòng, không có một lý do gì mà ngập ngừng. Ngập ngừng là không thuộc lòng. Không thuộc lòng thì...alê, hấp.
Thầy chỉ tay về phía góc lớp, cạnh cửa ra vào. Nơi đó là chỗ “nghỉ chân” của mấy trò không thuộc bài. Thầy nói : “A lê. Hấp “ có nghĩa là nếu không thuộc bài thì cứ tự nhiên tới đó, đứng day mặt vào tường khoảng nửa tiếng. Hình phạt, dù hình thức không nặng nhẹ gì cho lắm. Nhưng mà nặng là nặng cái hột vịt tròn vo nằm ở trong sổ điểm. Thầy Điền không nương tay bao giờ. Con số O Thầy viết quả có nặng tay, lún cả giấy. Một phần bực bội trong người vì có trò lại dám không nghe lời Thầy mà học cho thuộc, đọc cho trơn. Một phần cho hả bớt cơn giận.
Số O bao giờ cũng được viết bằng mực đỏ.
Đầu năm, cái góc lớp vào giờ Học thuộc lòng… đông khách lắm. Có hôm đứng choáng cả cửa ra vào. Trò này nhìn ót trò kia. Không có phân biệt trai, gái như khi sắp hàng vào lớp, nam tả nữ hữu đàng hoàng.
Đã không thuộc bài thì phân biệt cái nỗi gì! Đứng dồn vô góc tuốt luốt !
Đông quá thì liệu mà đứng để không đạp nhằm chân nhau. In ít thì còn dễ thở hơn. Trò nào cũng khét nắng hôi chua. Gặp khi trời nóng, đứng đông quá, chịu đời không thấu !
Thầy Điền buồn lắm, nhất là lúc nhìn đám học trò đứng chật cứng ở góc lớp, lấm la lấm lét nhìn về phía Thầy. Thầy ngao ngán khi nhìn những con số O đỏ chói chiếm gần nửa cột giấy mà chóng mặt nhức đầu muốn hoa cả mắt. Nhưng không thể nào hơn ! Thầy phải kiên quyết.
Lần hồi, tình trạng có vẻ...thoáng mát hơn. Rồi qua nửa năm, cái góc lớp chỉ còn loe ngoe vài mống. Nhưng mà, phải công nhận, đáng nể nhất là trò Thiệt. Từ đầu năm cho tới giờ phút này, lần nào kêu lên trả bài Học-thuộc-lòng, trò cũng được tới “nghỉ chân” ở góc lớp không thiếu sót lần nào ! Riết rồi, tới giờ Học-thuộc-lòng, khi Thầy kêu tới tên Phạm Thiệt là y như học trò cả lớp đều không hẹn mà nhìn nhau lắc đầu le lưỡi.
Giờ thì cây bút Thầy đang rà dọc xuống, chầm chậm và ngừng lại .
- Phan Thành.
Cả lớp thở phào.. Thành là niềm tự hào của lớp, ít ra, là trong giờ Học-thuộc-lòng. Một cây trả bài đúng là thuộc nằm lòng như ý thầy Điền mong muốn. Mỗi lần kêu tới tên, hắn đứng lên chững chạc tự tin. Sau khi hai tay đưa cuốn vở cho Thầy chấm điểm viết, hắn quay mặt về phía lớp, vòng hai tay đứng ưỡn người,mắt thì nhắm tít lại. Và tiếng đọc bài rổn rảng, không vấp váp, không hề ngập ngừng dù bài dài hay ngắn. Dứt bài đọc, hắn mở bừng mắt, hai tay vẫn vòng trước ngực, đứng yên chờ đợi. Lần nào cũng thế, thầy Điền gật gù khoái chí, đưa trả cuốn vở cho hắn. Con số 10 mập ú bên cạnh chữ “Giỏi” no tròn. Thành từ tốn về lại chỗ ngồi trong ánh mắt nhìn thán phục của cả lớp.
Riêng có một ánh mắt nhìn chăm về phía thằng Thành, ngoài vẻ thán phục, còn có cả sự ao ước thèm thuồng không giấu giếm. Đó là trò Thiệt. Thật vậy, nó ao ước đến ngơ ngẩn thẫn thờ cái phút giây nhìn thấy thầy Điền gật gù khoái chí và khi đưa trả cuốn vở cho nó, có thêm con số 10 mập ú. Nhưng đó chỉ là ước mơ với hoài chưa tới. Bởi vì, cứ mỗi lần Thầy kêu lên trả bài là tự nhiên nó thấy người bủn rủn, nhớ trước quên sau. Cố gắng cho lắm thì cũng chỉ được vài câu rồi bắt đầu khựng lại. Những dòng chữ rõ ràng hồi sáng còn đọc trơn tru, bây giờ đi lạc đâu mất không chịu về ! Một cảm giác vừa buồn vừa giận ngập òa trong lòng nó. Càng cố nhớ lại càng quên. Mặt mày nó nhăn nhó thảm hại.
Thầy Điền khẽ thở dài ngao ngán, đặt cuốn vở của nó qua một bên. Và nó, tự biết ý, lủi thủi đi về góc lớp.
Cảnh đó đã trở thành quen thuộc đến độ nhàm chán.
Sáng nay, cây bút Thầy ngập ngừng ở tên Thiệt rồi không hiểu Thầy nghĩ thế nào, cho qua. Và do đó, cái góc lớp sáng nay cũng lặng buồn, không có...khách.

**
Anh Chính bỏ cây cuốc xuống gốc Sung, hỏi :
- Sao buồn vậy, chú em ?
Thiệt vẫn ngồi yên, không trả lời. Mọi lần gặp anh Chính, nó rất vui vì tính anh rất khôi hài, hay quan tâm đến người khác. Anh nói chuyện có lớp lang tuồng tích nghe rất khoái. Nhưng lần này thì đúng như anh Chính hỏi, nó buồn thật. Vừa ôm một cái trứng vịt tròn lại phải đứng ở góc lớp làm sao mà vui cho được ! Anh Chính đến gần bên, quàng tay qua vai nó, cười :
- Hồi trước, có anh chàng Tấn Lực, cỡ bằng tuổi em đây, thường ngồi buồn xo một mình nhìn trời nhìn đất. Có người hỏi : “Sao buồn dữ vậy ?”. Nó trả lời : “ Nhớ Mẹ “. Ừa, nhớ Mẹ là đúng rồi. Vì nó mồ côi mà ! Hồi này, thấy em cũng y dáng vậy, anh hỏi em, em không trả lời. Vậy là buồn hết cỡ rồi !. Người đời thường gọi cái buồn này là buồn câm nín .
Nếu như lần khác, nó sẽ cười vui vì ý nghĩ ngộ nghĩnh của anh Chính. Nhưng lần này thì nó cười không nổi. Tự nhiên nó lại giận lây cả anh Chính nữa. Hất tay anh ra, nó vùng vằng :
- Thôi mà anh ! Em đang buồn thiệt mà .
Anh Chính vẫn cưồi, thích thú cái hất tay bực bội và cái vẻ vùng vằng của nó :
- Thì anh có nói em vui hồi nào đâu ?
Rồi anh giả lơ nhìn mây trời, nói trỏng :
- Mà cũng đáng buồn thiệt chớ. Mỏi cẳng quá chừng chừng lại còn bắt người ta ăn hoài mấy cái trứng vịt ớn tận cổ, nuốt không vô.
Thằng Thiệt giật thót người, quay nhìn anh Chính, ngạc nhiên :
- Ủa, sao anh biết ?
Anh Chính nhìn nó, cười ngất :
- Ủa, biết là biết chớ sao. Hỏi kỳ thiệt. Tới gần em nghe mùi vịt không à. Cái trứng vừa rồi chắc bị ung….
Lại cười ngất. Thằng Thiệt chịu không nổi, vùng vằng dợm đứng dậy. Vội vàng, anh Chính nắm tay nó kéo xuống :
- Ậy, ậy. Đừng nóng chú em ! Ngồi xuống đây anh nói đôi lời tâm sự đã. Chuyện nhỏ mà, có khó khăn gì đâu. Ngồi xuống, ngồi xuống…
Thiệt ngồi xuống. Anh Chính như được đà, nói tiếp :
- Ngày xưa, có ông Lưu Bị ba lần hạ cố thảo lư đặng mời cho được Khổng Minh Gia Cát...
Đến đây, thằng Thiệt xua tay như đuổi tà :
- Thôi, thôi. Ông Lưu Bị chỉ có ba lần còn anh thì nói có chục lần hơn cái chuyện này rồi. Nghe riết bắt thuộc nằm lòng…
Tức thì anh Chính cười, vỗ mạnh vào vai nó :
- Vậy hả ?. Vậy là thuộc nằm lòng thiệt sao ?
Rồi anh hắng giọng, đứng thẳng người, giả làm tiếng nói của thầy Điền :
- Các trò phải nhớ cho kỹ lời Thầy. Đã là học thuộc lòng là học thuộc nằm lòng, không có một lý do gì mà ngập ngừng. Ngập ngừng là không thuộc lòng. Không thuộc lòng là a lê...hấp...
Thằng Thiệt sững sờ nhìn anh, hỏi :
- Ủa, sao anh biết ?
Anh Chính lại cười :
- Ủa, biết là biết chớ sao ! Hỏi kỳ thiệt.
Rồi anh ngồi ghé xuống bên nó, giọng nhỏ nhẹ :
- Nói thiệt với em nghe. Chắc em biết con Chuyên chớ ?. Hồi đó (lại hồi đó) nó còn bết bát hơn em nhiều ! Rồi bây giờ em thấy nó sao ? Có phải là bảnh hơn em không ?. Cái góc lớp đó nó chê từ khuya rồi. Vậy mà sao em cứ bám đứng vô đó hoài !
Con Chuyên là em của anh Chính, nó biết chớ. Hồi đó, con nhỏ này với nó thi đua đứng hoài ở góc lớp có sót buổi nào đâu !. Rồi chỉ thời gian sau con nhỏ bỏ nó hồi nào không hay. Bỏ cái góc lớp ra đi mà oanh liệt lắm, tưởng như là một phép lạ. Phải là một bước thấu trời. Con nhỏ lần hồi trở thành niềm tự hào của đám học trò bên nữ. Giờ học thuộc lòng nào nó cũng chiếm điểm ưu hạng. Đúng là đọc thuộc nằm lòng như ý thầy Điền mong. Cả lớp ai cũng lấy làm lạ và hết sức ngưỡng mộ. Thầy Điền thì khỏi phải nói. Thầy khen nó không tiếc lời. Những lần nghe nó trả bài học thuộc lòng, Thầy khoái chí lim dim đôi mắt, gật gù. Cả lớp học thì cứ nhìn sững. Tưởng là ai chớ đâu phải trò Chuyên của ngày nào, cứ đứng lì ở góc lớp, đuổi hoài không chịu đi !
Anh Chính tự nhiên nhắc tới con nhỏ Chuyên làm cho thằng Thiệt càng thêm buồn tủi.Nó nói :
- Nhưng bây giờ thì nó khác rồi. Đâu có...
Anh Chính vội cướp lời :
- Thôi, chú em khỏi phải nhiều lời. Thì rõ ràng bây giờ nó đâu có như em nữa. Nó ở trên trời, em đứng dưới đất. Người ta gọi là một trời một vực đó.
Rồi anh ghé vào tai nó, nói nhỏ :
- Có khó gì đâu, em. Anh đây sẽ giúp em tận tình.
Thằng Thiệt ngạc nhiên, hỏi lại :
- Làm sao anh giúp được. Bộ anh học bài giùm em hả ?
Anh Chính không trả lời câu hỏi của nó, vẻ mặt anh trở nên nghiêm trọng :
- Chỉ cần em thành tâm và có niềm tin. Chỉ cần cái lá thuộc bài...
Thằng Thiệt ngơ ngẩn không biết anh Chính nói gì. Trong khi đó anh vẫn nhìn vào tận đâu đâu, miệng lẩm bẩm :
- Phải. Chỉ cần tìm cái lá thuộc bài là giúp đỡ chú em này được. Cái lá thuộc bài...
Nhìn vẻ mặt nghiêm trọng của anh Chính, thằng Thiệt đâm ra bối rối. Mọi ngày anh đâu có vậy ? Sao bây giờ nhắc tới cái lá thuộc bài gì đó, thấy anh có vẻ khác lạ. Nó nhè nhẹ đẩy vai anh Chính
- Anh Chính. Anh Chính. Anh đang nói gì vậy ?. Lá thuộc bài gì hả ?
Anh Chính quay lại nhìn nó, vẫn giữ vẻ nghiêm trọng :
- Là cái lá giúp em sẽ học thuộc bài. Ngày đó, con Chuyên đã tìm được cái lá thuộc bài này. Bây giờ anh muốn giúp em, chỉ sợ là em không đủ lòng tin và không làm đúng lời chỉ dạy.
Nhìn điệu bộ và lời nói của anh Chính, thằng Thiệt thấy rờn rợn. Chuyện có vẻ thần bí. Nhưng nghĩ tới con Chuyên trong lòng nó tự nhiên thấy háo hức. Một ngày nào đó, nếu nó tìm được cái lá thuộc bài như lời anh Chính vừa nói, nó cũng đâu có thua gì con Chuyên nữa. Sẽ một trời một vực. Nó giựt tay anh Chính, hối thúc :
- Vậy thì anh dạy em đi. Con Chuyên nó làm được thì em đây cũng làm được mà
Anh Chính cười có vẻ khoái chí. Vòng tay qua vai nó, anh nói :
- Chà, nói câu này nghe được. Phải, người ta làm được thì mình làm được. Không có chuyện gì khó, chỉ sợ lòng không bền. Anh sẽ dạy cho em “bí kíp”…
Thằng Thiệt ngạc nhiên, vội hỏi :
- Anh nói gì ghê vậy. Bí kíp là gì mà nghe lạ hoắc
Anh Chính có vẻ bực mình, hơi xẵng :
- Chú em này hỏi nhiều quá chừng. Bây giờ anh hỏi nè. Có muốn học đâu nhớ đó. Đọc câu trước nhớ liền câu sau không ?
Anh Chính nói “ đọc câu trước nhớ liền câu sau “ nghe sao mà “đã” quá. Thằng Thiệt hăng hái :
- Có chớ.
Anh Chính lại tiếp :
- Hỏi thêm câu này nữa. Câu này quan trọng nè. Vậy em có lòng tin không ?
Thằng Thiệt trả lời không cần suy nghĩ :
- Có
Anh Chính có vẻ hài lòng :
- Vậy thì lắng nghe đây. Nghe cho kỹ. (Anh tằng hắng, lấy giọng ). Buổi sáng, em phải dậy thiệt sớm khi mà mặt trời chưa mọc, còn mù sương. Chỗ này quan trọng, em phải nhớ mà làm chớ để mặt trời lên rồi mới dậy thì vô phương. Dậy rồi, ra vườn bứt một cái lá. Lá nào cũng được, miễn lá còn đọng sương là tốt. Xong, đem vô ép trong cuốn vở mà em có bài đang học. Tiếp tới là ngồi đọc bài nhiều lần. Kỳ diệu lắm. Lúc đó em học tới đâu thuộc tới đó, ro ro.( Anh ghé vào tai nó, thì thầm ) Nhưng mà em phải hết sức bí mật, không tiết lộ cho ai biết. Nếu như có ai mà biết được thì coi như không “ép phê” gì nữa. À à, anh quên, không “ép phê” tức là không linh nghiệm nữa đó !
Gương mặt của thằng Thiệt cũng trở nên nghiêm trọng. Nó bị kích động mạnh vì những lời của anh Chính. Tìm cái lá thuộc bài như vậy thôi thì cũng dễ, khó gì. Nhưng mà kẹt một điều là làm sao mà dậy sớm cho được ! Nó là thằng ngủ mê ngủ muội thuở giờ. Sáng nào thức dậy mặt trời cũng đã lên cao. Có bữa chạy vắt giò không thôi trễ học. Chuyện này khó giải quyết dữ !
Thấy thằng Thiệt mặt mày nhăn nhó ra chiều khó nghĩ, anh Chính hỏi thăm dò :
- Sao? Nhắm được không ? Nói đại đi. Ngó cái mặt chú mày sao anh nghi quá ! Thôi, bỏ đi. Coi như anh chưa nói gì...
Thằng Thiệt nhìn anh Chính, cười ngượng nghịu :
- Không phải vậy đâu anh ơi ! Em làm được mà. Nhưng có điều em...em... mê ngủ thuở giờ, làm sao mà dậy sớm cho được.
Anh Chính cười ngất :
- Tưởng chuyện gì chớ chuyện đó khó gì. Em quên chị Thơm của em rồi sao ? Nhờ chỉ kêu giùm một tiếng là xong ngay.
Thằng Thiệt vẫn còn áy náy :
- Kêu thì chỉ kêu chớ. Nhưng anh có dặn là phải giữ bí mật mà !
Anh Chính vỗ nhẹ hai tay vào nhau ngửa mặt kêu trời :
- Trời ơi là trời ! Cái thằng này !.Anh có biểu em phải nói rõ lý do kêu dậy sớm với chị Thơm đâu. Cứ nhờ chỉ kêu một tiếng xong rồi việc ai nấy lo. Chị lo cơm nước ra đồng, em lo chuyện đó. Không lẽ chỉ đi rình em làm gì sao. Cùng lắm thì cứ nói kêu dậy sớm để học bài, khỏe re...
Thằng Thiệt cười, mặt mày tươi tĩnh.
Hai anh em chia tay
Trên đường về, thằng Thiệt đi mà như chạy. Đầu óc nó đang mơ tới một ngày sẽ như thằng Thành, như con nhỏ Chuyên. Nó sẽ giã từ cái góc lớp một cách oanh liệt. Sẽ được thầy Điền khen ngợi hết lời. Được đám bạn nhìn ngó tha hồ thán phục. Rồi đây nữa, điểm 10 cũng phải lấy thúng mà đựng không hết.
Về tới nhà, thấy chị Thơm đang quét sân, nó nói liền :
- Chị Hai ơi ! Sáng mai chị kêu em dậy sớm nghe. Nhớ là kêu dậy thiệt sớm nghe chị.
Chị Thơm đang thu dọn đống lá, nghe nó nói, chị ngừng chổi ngạc nhiên hết sức :
- Cái thằng này ! Sao tự nhiên lại bắt chị kêu dậy sớm ? Mà em dậy sớm làm gì ? Dậy sớm đi ăn trộm hả ?
Thằng Thiệt vùng vằng, làm đúng bài bản anh Chính dặn :
- Thì kêu dậy sớm học bài mà...
Chị Thơm ngẩn người vì câu nói của nó. Vừa lúc đó, có tiếng tằng hắng ngoài cổng. Chị Thơm nhìn ra, thấy anh Chính đứng lấp ló sau hàng bông Cẩn. Thấy chị, anh nháy nháy mắt, tay chỉ chỉ về phía thằng Thiệt, đầu gật gật.Chị Thơm hiểu ý, cười vui vẻ, nói với thằng Thiệt :
- Thôi được rồi. Để chị kêu em dậy trước lúc mặt trời mọc.

**

Vần xong nồi cơm, Thơm đến giường của thằng Thiệt. Thấy nó nằm trùm mền kín mít, co quắp thiệt tội. Một thoáng ngần ngừ, rồi chị dứt khoát :
- Thiệt ơi ! Dậy đi em. Dậy đi, sáng rồi.
Thằng Thiệt trở mình ú ớ. Chị Thơm lay mạnh người nó :
-Dậy đi mà ! Mặt trời lên rồi đó
Mấy tiếng “ mặt trời lên rồi đó” có tác dụng liền. Thằng Thiệt bật ngồi dậy, ngơ ngác nhìn quanh. Nó dụi mắt cho tĩnh ngủ. Ngoài ánh sáng vàng vọt của cây đèn dầu, mọi vật vẫn còn mờ tối. Chị Thơm thấy vẻ hoảng hốt của nó, không nín được cười :
- Em làm gì vậy, Thiệt ? Kêu rồi đó nghen. Giờ thì chị lo xuống coi cơm nước. Dậy liền đi. Đừng có nằm lại rồi ngủ quên.
Thằng Thiệt vẫn còn đang ngái ngủ, muốn nằm xuống trùm mền ấm, rồi tới đâu thì tới. Nhưng rồi nó chợt nhớ sáng nay có giờ Học Thuộc Lòng và cái góc lớp quen thuộc tới nổi phát ghét. Nhớ lời anh Chính về cái lá-thuộc-bài hôm qua. Rồi mặt mày hí hửng của con Chuyên...Nó bước xuống giường, quơ vội cái áo ấm rồi ra vườn.
Cảnh vật im ắng chìm trong màn sương. Có tiếng dế gáy say sưa ở cuối sân vườn. Tiếng sột soạt của bầy chim trên cành ổi Sẻ. Tiếng sương rơi nhẹ, đều, quanh vườn. Nó bước tới khóm hoa thược-dược cành lá um tùm mà nó đã có ý ngắm sẵn từ chiều hôm qua. Chọn một cái lá nhỏ đầu ngọn còn đẫm sương đêm, nhẹ tay bứt lấy bỏ trên lòng bàn tay rồi khúm núm đi vào nhà, vẻ mặt có vẻ nghiêm trọng. Sau khi ép chiếc lá còn đẫm sương vào cuốn vở Học Thuộc Lòng như lời dặn dò của anh Chính, nó bắt đầu ngồi học. Trời sớm mơi không khí trong lành, mát lạnh làm cho đầu óc sảng khoái, trong người cảm thấy nhẹ nhàng thoải mái.Đọc đâu được vài lần, nó cảm thấy cái lá-thuộc-bài này linh nghiệm thiệt. Đọc đâu nhớ đó. Rõ ràng là chỉ đọc có mấy lần thôi mà nó thuộc ro. Gấp vở lại, nó nhắm mắt đọc thử. Thiệt là linh nghiệm. Không vấp váp, không bỏ sót chữ nào.. Trong lòng nó dậy lên niềm tin tưởng mãnh liệt.
Thời giờ để chờ đến sáng, chẳng biết làm gì, nó ngồi học mê mãi.

**
Cây bút của thầy Điền lại rà dọc xuống cuốn sổ điểm trong khi cả lớp nín thở chờ đợi. Rồi !. Đầu bút ngừng lại, nhịp nhịp vài cái nhẹ. Thầy hắng giọng, kêu :
- Phạm Thiệt…
Không phải kêu tên mình mà cả lớp, trò nào cũng giật thót người. Rồi sau đó, lén nhìn về phía trò Thiệt với ánh nhìn ái ngại. Riêng thằng Thiệt thì nó đã chờ đợi cái giây phút này lâu lắm rồi. Khi nghe kêu đến tên mình, nó cầm lấy cuốn vở đứng lên một cách mạnh dạn. Những bước chân vững, mạnh, không mau, không chậm. Gương mặt có vẻ bình thản và tự tin.
Đầu tiên là thầy Điền thoáng ngạc nhiên. Mắt chăm chú theo dõi từng cử chỉ khác lạ của thằng Thiệt nhưng tay thì vẫn theo thói quen, Thầy bỏ cây bút xanh cầm cây bút đỏ. Chắc chắn là cây bút đỏ này, chớ không có cây màu mè nào khác, sẽ vo tròn một con số O lún giấy.
Cả lớp xì sầm bàn tán rồi nhìn nhau dò hỏi. Thằng Thiệt vẫn giữ vẻ dáng tự tin, hai tay trao cuốn vở cho thầy Điền rồi quay xuống phía lớp. Nó bắt chước y điệu bộ của thằng Thành, hai tay vòng trước ngực, mắt nhắm tít và giọng đọc bắt đầu…
Ý trời đất ơi ! Giông bão có làm sập trường cũng không bằng cái cảnh động trời dậy đất xảy ra trước mặt. Cái giọng đọc bài rổn rảng của thằng Thiệt từ đầu cho tới cuối bài trơn tru liền lặn, không vấp váp, không bỏ sót một chữ nào.
Hết bài đọc, thằng Thiệt mở choàng mắt, vẫn vòng hai tay chờ đợi.
Thầy Điền trố mắt nhìn sững nó, vẻ ngạc nhiên không cần giấu diếm. Cặp kính cuả Thầy trễ nặng gần muốn rớt xuống mặt bàn mà Thầy cũng cứ để mặc. Cả lớp thì im lìm không một tiếng động. Khoảng thời gian im lặng kéo dài cho tới lúc thầy Điền thoáng giật mình buộc miệng một tiếng “Giỏi”. Tay Thầy lanh lẹ ghi con số 10 to tướng. Con số 10 màu đỏ chói thay vì màu xanh như thường lệ. Cả lớp, như con nước vỡ bờ, ồn ào náo động như cái chợ vỡ.
Thằng Thiệt sung sướng đến run cả người, nhận cuốn vở từ tay Thầy. Con số 10 no đầy đỏ chói làm cho nó muốn xây xẩm. Những bước chân nhẹ hẫng trong tiếng ồn ào và những ánh mắt nhìn ngạc nhiên thán phục của cả lớp.

**
Chị Thơm để chén chè đậu ván nước bốc khói nghi ngút lên bàn, trước mặt anh Chính.
- Chén chè này là để cám ơn anh đã giúp em Thiệt
Anh Chính mát lòng mát dạ, vui quá chừng. Không phải vì cái chuyện giúp thằng Thiệt mà là vì chén chè được chính tay người đẹp mang tới mời mọc tận tay. Đi hết làng trên xóm dưới thiệt khó có cô gái nào qua mặt được cô Thơm về cái nết dịu dàng hiền hậu. Lại siêng năng cần mẫn, giỏi việc nhà, việc đồng áng. Nói năng thì dám ngọt hơn chén chè này nữa chớ phải chơi. Anh Chính ưng bụng từ lâu.
Nói cho cùng, chị Thơm cũng có cảm tình với anh Chính. Bởi thấy anh ăn nói thông kim bác cổ, bụng dạ thánh hiền. Anh hay quan tâm và giúp đỡ mọi người đâu có hề nghĩ tới chuyện đền ơn đáp nghĩa. Chén chè này tuy gọi là đền ơn nhưng thiệt ra trong bụng có ý tứ kín đáo hơn. Chị muốn gặp anh Chính. Gặp để mà gặp vậy thôi chớ đâu có chuyện gì để nói.
Anh Chính cũng có ý nghĩ vậy. Được nhắn, anh mừng quá, bỏ ngang công việc tới liền. Chén chè ơn nghĩa của chị Thơm làm anh ngượng ngịu :
- Chuyện nhỏ mà, cô Thơm. Cô làm vầy tui thấy ngượng quá !
Chị Thơm nhìn cái mặt đỏ rần của anh Chính, cười :
- Tại vì anh nghĩ là nó nhỏ chớ thiệt ra là chuyện lớn đó anh. Thằng Thiệt thuở giờ mê ăn mê ngủ chớ có đâu như bây giờ, siêng năng cần mẫn. Ba em, ổng khen anh hoài…
Được lời như cởi tấm lòng. Anh Chính trở nên mạnh dạn , hoạt bát :
- Chuyện nhỏ mà, cô Thơm. Thiệt tình mà nói, khi Cô mở lời nhờ cậy chuyện giúp đỡ em Thiệt, tui cũng đã bàn tính trong bụng rồi. Nó mê ngủ thì mình tính chuyện cho nó hết mê ngủ. Nó không có lòng tự tin thì mình tạo cho nó niềm tin. Cái này thuộc về tâm lý mà cô Thơm. Với lại, khi con người đã có lòng tin rồi thì đâu có việc gì là khó khăn.
Rồi anh cười thoải mái, nói tiếp :
- Với lại cô Thơm tính coi. Dậy sớm qua chừng, thời gian còn lại để chờ giờ đi học thì làm gì hơn là học bài. Đọc tới, đọc lui như tụng kinh thì cái bài học thuộc lòng ngắn củn đó có khó gì đâu mà không thuộc.
Chị Thơm phục anh Chính về chuyện thằng Thiệt từ lâu. Nay nghe anh nói áp dụng phương pháp tâm lý gì gì đó, rồi nghe anh phân tích ngọn ngành hợp lý mới thấy anh tuy là chân lấm tay bùn, nhưng vượt trội hơn người. Chị có cảm giác yên tâm và tin tưởng ở người bạn trai này. Cầm chén chè lên, chị dịu dàng :
- Thôi, anh Chính ăn đi. Để nguội mất ngon.
Rồi nhìn anh, mỉm cười ranh mãnh :
- Hồi nãy anh nói phương pháp tâm lý gì đó.Vậy chớ, em hỏi anh Chính, anh có lòng tin không ?
Anh Chính đang cầm chén chè, nghe hỏi, hơi khựng người một thoáng. Rồi khi anh nhìn thấy nụ cười của Thơm, thấy ánh mắt nhìn anh kín đáo, dịu dàng. Anh cười, đáp lại :
- Sao cô Thơm lại còn hỏi ? Ăn chén chè ngọt đây rồi, tui có lòng tin dữ lắm chớ...

tháng 5 20, 2011

QUÀ SINH NHẬT

TRÁI THÙ LÙ


Đi suốt dọc quầy rau tươi,vẫn chưa tìm được bó rau tía tô nào. Có lẽ hôm nay rau về chưa kịp. Tôi định chọn bó rau thơm nhưng nghĩ đến món bún bò Huế,chắc chắn là rau tía tô sẽ thích hợp hơn. Món ăn có được hương vị đậm đà ngoài việc gia giảm nêm nếm gia vị, còn tùy thuộc vào hương vị của từng loại rau.
Ăn Phở, nhất định là phải có rau húng quế, ngò gai. Ăn bún riêu, không thể nào quên mùi rau kinh giới. Còn món bún bò Huế, nhất định là phải có mùi hương của tía tô và chút rau răm để tăng thêm phần hấp dẫn của tô bún đặc sản miền sông Hương núi Ngự. Chưa nói tới là phải có vị nồng cay của ớt mới thật là đúng điệu. Ông Bà ta xưa rất cầu kỳ và có nhiều kinh nghiệm trong việc ăn uống, xem đó như là một nghệ thuật cao.
Nghệ thuật ăn uống đã đi vào đại chúng với vô số những câu ca dao truyền khẩu có, thành văn có.Nhiều câu chúng ta hầu như đã thuộc nằm lòng :
Con gà tục tác lá Chanh
Con lợn ủn ỉn mua Hành cho tôi
Con chó khóc đứng khóc ngồi
Bà ơi đi chợ mua tôi đồng Riềng

thế mới biết là món ăn cũng phải tùy thuộc vào từng hương vị của mỗi loại rau là vậy.
Tôi cầm bó rau nhìn qua ngắm lại tần ngần. Cuối cùng tôi bỏ lại và quyết định đến khu chợ Á đông khác. Để tô bún bò Huế mất đi hương vị đậm đà thì thật là uổng công cho người nấu mà cũng phụ lòng người ăn. Thôi thì chịu khó mất công một chút để được trọn vẹn cả đôi đường.
Vừa dợm bước, tôi bỗng nghe tiếng chân chạy lao xao và tiếng reo vui :
- Ồ, Ba ơi, có trái thù lù...
Câu nói bất ngờ chợt làm tôi xúc động, thoáng bâng khuâng nghĩ về một kỷ niệm xưa. Tôi khẻ liếc nhanh lên hàng kệ trên cao, nơi bày bán loại trái Potomalis. Đây là loại trái đặc biệt có lớp vỏ mỏng như giấy bao bọc phía ngoài. Khi lớp vỏ giấy bên ngoài khô giòn đổi màu vàng úa thì trái bên trong đã đến độ chín. Vỏ bọc càng khô, trái càng chín nẫu. Trái có vị ngọt đậm pha lẫn chua. Kết cấu bên trong là nhiều hạt nhỏ như hạt cà chua nhưng vỏ của trái có độ dày hơn. Loại trái này hầu như được bày bán rất nhiều tại các chợ Mỹ. Tôi hoàn toàn không biết ở đây họ dùng để nấu món gì nhưng chắc chắn là không phải để ăn thường như các loại Táo, Nho...
Mỗi lần thấy nó, tôi liên tưởng ngay đến trái thù lù ở quê nhà.
Nếu gọi là thù lù thì chính trái Potomalis ở đây mới đúng nghĩa, bởi vì nó to...thù lù. Còn ở quê nhà, trái chỉ to bằng đầu ngón tay út. Họa hoằn lắm mới có một trái tạm gọi là to, nhưng cũng chỉ nhỉnh hơn chút mà thôi. Nhỏ như vậy sao lại gọi là trái thù lù ?. Hay là vì nó tròn vo, đầy đặn, bóng lưởng lúc đến độ chín ! Cũng có thể gọi như vậy từ một nghĩa khác. Tiếng gọi nhân gian truyền khẩu,có lý do và ý nghĩa riêng của nó. Định bụng hôm nào rảnh rỗi, ghé qua Thư viện để tìm hiểu về loại trái cây này.
Vừa lúc đó, chú bé đã liến thoắng chạy đến bên cạnh tôi, nhón chân để nhìn cho rõ mớ trái Potomalis chất đầy trên kệ. Tôi im lặng âm thầm theo dõi. Đôi mắt chú sáng rực, không phải biểu lộ sự thèm thuồng mà là sự ngạc nhiên thích thú. Chú rón rén cầm lấy một trái quan sát rất kỹ rồi buộc miệng :
- Chu cha, to quá !
Tôi suýt phì cười. Câu nói đó tôi cũng đã buộc miệng khi lần đầu tiên nhìn thấy trái Potomalis, những ngày chân ướt chân ráo đến định cư tại đây. Vẻ mặt chú rạng rỡ. Chú nâng niu trái Potomalis trên tay rồi dáo dác nhìn quanh, ý chừng tìm kiếm người Cha, để chia xẻ niềm vui bất chợt.
Vừa lúc đó, có tiếng chân phía sau tôi và tiếng nói, giọng miền Trung :
- Con đang tìm chi đó, Cu Tí ?
Chú bé có tên là cu Tí, chắc chắn chỉ là tên gọi thường ngày trong nhà, vừa thấy Cha, chú mừng rỡ :
- Trái thù lù nè Ba !
Người Cha bước tới, nhìn trái Potomalis trong lòng bàn tay nhỏ nhắn của con. Ông có vẻ ngạc nhiên :
- Phải không đó ?. Sao mà hắn to dữ ri ?
Cu Tí nhà ta làm ra vẻ sành sỏi :
- Phải mà, Ba. Trái thù lù đó. Bộ Ba không thấy ở Mỹ cái chi cũng to hết. Người Mỹ, hắn cũng to gấp mấy người mình..
Người Cha vẫn chưa hết ngạc nhiên :
- Đâu?.Con đưa Ba coi thử.
Ông ta vội vàng cầm trái Potomalis từ tay thằng Tí, mân mê lớp vỏ bên ngoài rồi ngắm nhìn kỹ cái trái vàng bóng bên trong. Cuối cùng ông gật gù :
- Đúng là trái thù lù rồi. Mà sao hắn to dữ hè ?
Cu Tí nhìn ông, cười sảng khoái :
- Ở Mỹ mà Ba.
Ông ta không nói gì, bỏ trái lại chỗ cũ. Thằng Cu Tí thấy vậy, vội vàng nói :
- Lát nữa Ba mua cho con mấy trái ăn thử, nghe Ba !
Tôi thấy ông ta ngần ngừ một thoáng rồi mới nói với con :
- Thôi, để Ba mua táo với nho con ăn cho “ đã”. Mấy loại trái ni bên nhà có khi mô mà con được rớ tới. Ăn trái thù lù ngon lành chi! Ở bên nhà con ăn hoài rồi...
Tôi thấy mặt Cu Tí phụng phịu, nó nắm lấy tay áo của Cha giật nhẹ, mặt ngước nhìn lên, nài nỉ :
- Đi Ba ! Mua cho con đi. Con thèm lắm !
Trong ánh nhìn thơ trẻ đó, tôi hình như thấy một nét buồn xa vắng. Không phải là nét buồn vì không thỏa mãn được lòng mong muốn. Nó còn hơn thế nữa. Vời vợi đến nao lòng. Tôi chỉ cảm nhận mà không diễn tả được.
Người Cha vẫn chưa thấy trả lời. Cu Tí lại nài nỉ :
- Mấy trái thù lù mọc trên mộ Mạ con, ăn ngọt lắm. Con muốn ăn lại trái thù lù, con nhớ ...
Tự nhiên tôi sững người. “ Mấy trái thù lù mọc trên mộ Mạ con, ăn ngọt lắm”. Những tiếng nói đó như xoáy vào tim tôi, đau nhói. Câu nói này tôi cũng đã có lần nói với anh tôi, hơn năm mươi năm trước, khi hai anh em trên đường về xóm nhỏ : “ Mấy trái thù lù mọc trên mộ Mạ, ăn ngọt thiệt “.
Ngày đó, tôi cũng trạc tuổi như Cu Tí bây giờ...
Tôi thẩn thờ bỏ bó rau xuống và quày quả ra xe. Hình ảnh và câu nói trùng hợp đã làm tôi xúc động đến nghẹn ngào. Tôi muốn ngồi yên lặng một mình để dịu bớt nỗi buồn chợt đến từ một câu nói trùng hợp vô tình đã khơi dậy trong tôi những kỷ niệm về những ngày thơ ấu. Những trái thù lù vàng bóng nằm bên trong lớp vỏ lụa mỏng khô đã cho tôi niềm vui thơ dại.

Tôi không biết tự lúc nào, cây thù lù đã mọc bên cạnh mộ Mẹ tôi. Lứa trái bói đầu tiên tôi được ăn là những ngày tôi còn học ở Trường tiểu học Đa Nghĩa rồi chuyển lên trường Bạch Đằng. Ngay cả khi tôi vào trung học Trần Hưng Đạo,những trái thù lù vàng óng vẫn là niềm vui khi tôi ghé thăm mộ Mẹ. Sau này, khi đã vào đời,những trái thù lù vẫn mãi là niềm vui đối với tôi. Tuy ở vào mỗi thời điểm,niềm vui có những trạng thái khác, nhưng vẫn là niềm vui mà tôi không thể nào quên được. Nó gắn liền vào cuộc đời tôi về hình ảnh người Mẹ đã bỏ tôi đi khi tôi còn quá nhỏ.
Nhưng có lẽ, kỷ niệm về trái thù lù mà tôi nhớ nhất là những tháng,năm trải dài tuổi thơ của tôi trong cái xóm đình Đa Cát,một khu xóm nghèo cùng cực. Người lớn thì lam lũ suốt ngày lo thắt ruột vì miếng ăn. Trẻ con thì đầu trần chân đất quanh năm suốt tháng. Chính cái vị ngọt chua đằm thắm của từng trái thù lù chín mọng đã là niềm vui lớn của tôi. Đúng,phải nói là một niềm vui lớn. Bởi vì tuổi thơ của tôi là những chuỗi ngày dài ăn chưa đủ no,thèm mà không có. Cảnh đói nghèo mà cái xóm đình Đa Cát của tôi phải triền miên chịu đựng đã là nguyên do để cho những người trong xóm phải tha phương cầu thực. Người đi xa khuất nẻo thì không biết thế nào nhưng những người còn lại thì quanh năm suốt tháng vẫn cứ ôm cảnh đói nghèo. Và thèm,thèm đủ thứ.
Vì thế cho nên khi phát hiện cây thù lù mọc gần mộ Mẹ tôi có những trái mọng vàng ngọt chua đến lịm cả lưỡi thì làm sao tôi không vui cho được ! Cứ tưởng tượng khi ngậm trái thù lù mát rượi vào miệng rồi cắn nhẹ. Cảm giác đầu tiên là chất nước ngọt ngào ứa ra rồi sau đó là những hạt nhỏ khi nhai có vị chua làm tê đầu lưỡi. Vị ngọt và chua hòa quyện lẫn nhau tạo nên một cảm giác thật khó mà diễn tả. Nó làm dịu lại những thèm khát lâu ngày.
Mỗi lần lên thăm mộ Mẹ trúng mùa trĩu quả, tôi thật không thấy niềm vui sướng nào bằng. Trong trí tưởng tượng của tôi ngày đó,tôi cứ nghĩ là Mẹ đã trồng cây thù lù này dành cho anh em tôi. Bởi vì,trải dài qua hai ngọn đồi rộng lớn của khu Mả Thánh chỉ toàn là loại cỏ tranh và cây ngũ sắc. Thưa thớt,có vài lùm bụi sim rừng và những cụm bông vạn thọ, loại bông vạn thọ núi hoa nhỏ có màu vàng pha đỏ sặc sỡ và lá nhỏ màu xanh đen đến mùa nắng trở màu vàng cháy.. Vậy mà, bên cạnh mộ Mẹ tôi lại có cây thù lù quanh năm tranh sống với loài cỏ tranh, một loại cỏ không chịu chung chạ với bất cứ loại cây nhỏ nào. Như một phép lạ,cây thù lù vẫn cứ vươn mình ngạo nghễ và cứ vẫn đều đặn ra hoa đậu quả. Teo tóp khô cằn trong mùa Đông nghiệt ngã rồi lại đâm chồi nẩy lộc vào độ Xuân qua để kịp cho những quả mọng vàng bóng lưởng vào mùa Hè.
Đó cũng là lý do tôi thường lên thăm mộ Mẹ vào mùa Hè. Khu nghĩa trang vắng lặng vàng hoe dưới ánh nắng. Những lùm cỏ tranh đã đến kỳ vàng cháy, ngả nghiêng xơ xác. Cây thù lù bên cạnh mộ Mẹ tôi vẫn giữ nét phong độ của những ngày Xuân. Lá tuy thưa thớt ngả vàng nhưng thân mộc vẫn sung mãn vươn lên oằn sai những quả. Lớp thì đang vàng chín trên cây, lớp thì chín muồi rụng xuống.
Mỗi lần lên thăm mộ, hai anh em tôi tranh nhau lượm quả chín. Anh tôi thì lúc nào cũng có vẻ chậm chạp ( sau nay tôi mới nghĩ ra là anh có ý nhường nhịn cho tôi ) nên phần anh giành được rất ít. Lượm trái rụng xong lại giành nhau hái những trái chín vàng trên cây, Sau đó, hai anh em nằm ngả ra đám cỏ tranh khô, vàng cháy nheo mắt nhìn những đám mây trời và bắt đầu nhâm nhi từng trái thù lù. Mây trời khi tụ khi tan, biến dạng thành những hình thù quái dị theo trí tưởng tượng của chúng tôi.
Khi tôi vào Trung học thì anh tôi đã vào đời rất sớm và không còn ở bên cạnh.Cây thù lù đã trở thành vật sở hữu riêng tôi.Những lần lên thăm mộ vào mùa Hè cây oằn sai những trái chín nhưng sao lòng tôi không còn háo hức như ngày nào. Vị ngọt ngào chua thanh vẫn tê lịm đầu lưỡi làm dịu những cơn thèm khát nhưng tôi vẫn cảm thấy buồn, một nỗi buồn không diễn tả được. Chỉ cảm nhận như có một sự trống vắng, hụt hẫng. Thường thì tôi ngủ thiếp đi cho đến lúc cảm thấy lành lạnh mới chợt giật mình thức giấc.
Và buồn bã ra về dưới bầu trời bắt đầu thoảng mù hơi sương…
Sau này, khi khôn lớn vào đời, hình ảnh cây thù lù và những trái chín vàng bóng lưởng vẫn theo tôi mãi không rời.. Cuộc sống rày đây mai đó đã đẩy xa tôi những cảm giác ngày xưa và lại càng không có dịp tìm lại hương vị của những giờ phút nằm ngắm mây trời, nhâm nhi từng trái ngọt. Thi thoảng, có về thăm nhưng vào những dịp trái mùa..
Theo thời gian, thân gốc tuy đã già nua cằn cỗi nhưng vẫn tranh sống với loài cỏ tranh,vẫn xanh tốt xum xuê.
Những ngày xa quê, tôi vẫn còn giữ y nguyên những kỷ niệm thời thơ ấu với vị ngọt ngào chua thanh của trái thù lù chín tới. Mãi mãi trong đời, tôi chẳng thể nào quên được…

*
Khi anh nhớ lại và viết câu chuyện này chắc chắn là em đã trưởng thành.
Thành phố nhỏ bé này ngó vậy mà rộng lớn bởi vì anh có ý tìm em mà không hề gặp.
Hay là từ sau lần giáp mặt lần đầu tiên trong khu chợ Á Đông, gia đình em lại dời qua nơi khác.
Cũng có thể duyên may chỉ đến với anh em mình một lần duy nhất đó.
Nhưng dầu thế nào đi chăng nữa, anh cũng mong rằng em có dịp đọc được câu chuyện này để chia sẻ cùng anh một cảnh đời trùng hợp.
Được sống lại những cảm giác bồi hồi, dù chỉ là giây phút, về một kỷ niệm xưa cũng là niềm hạnh phúc trong đời.
Anh gởi đến em, Cu Tí, niềm hạnh phúc nhỏ nhoi này để nhớ về một tình cờ giáp mặt


Phòng Văn
viết nhân ngày sinh nhật.

tháng 5 07, 2011

NGÀY CỦA MẸ


Tôi sinh ra mới ba ngày Mẹ mất
Mấy mươi năm thiếu Mẹ mấy ngàn ngày
Ngày của Mẹ đâu có gì hằn dấu
Khi một đời rồi thân phận mồ côi !

Tuổi thơ tôi đằm nước mắt buồn rơi
Tiếng Mẹ thiêng liêng chưa từng được gọi
Khi tôi khóc đâu có ai dành dỗ
Khi tôi vui cũng không ai chia cùng !

Tôi lớn lên từ giọt nước mắt rưng rưng
Thèm hơi ấm vòng tay tình mẫu tử
Thấy cảnh mẹ con người lòng tôi héo rũ
Nén nỗi buồn đau thân phận mồ côi !

Mấy mươi năm vẫn chưa từng lớn nổi
Vẫn cứ khóc thầm như thuở ấu thơ
Dễ giận dễ hờn dễ tủi buồn thương nhớ
Tiếng Mẹ thân quen quặn thắt cả lòng !

Dòng sữa đầu đời thay bằng bình cháo lỏng
Tiếng khóc đầu đời chị dỗ nín, em ngoan
Vòng ôm đầu đời anh chuyền hơi ấm
Tôi mủm mỉm đỏ hồng tình chị tình anh

Xóm nghèo xưa một thời manh áo rách
Chia đều nhau thân phận trẻ mồ côi
Tôi lớn lên sớm nhập cuộc vào đời
Anh chị em tự mỗi người mỗi cảnh

Ngày của Mẹ hồn tôi mùa gió lạnh
Có Mẹ đâu để nhớ lấy một ngày !
Ai còn có đóa bông hồng cài áo
Tôi thì một đời bông trắng cầm tay !

Chiều hôm nay lòng quê xa vạn dặm
Ngồi một mình hiên trước ngó trời mây
Mây có núi để bay về nương náu
Tôi mồ côi từ lúc mới ba ngày….

THẦM LẶNG MỘT CẢNH ĐỜI


Nhân ngày giỗ Mẹ
và Mother's Day


Từ xa, tôi đã thấy dáng Dì ngồi ở góc ngã ba dưới trụ điện đường. Chỗ ngồi đó không bao giờ xê dịch cho dù trời nắng hay mưa. Có hôm trời nổi gió, lạnh se da, chỗ ngồi đó vẫn cứ không hề thay đổi. Vẫn chiếc đòn gánh để ngang sau lưng. Chiếc ghế đẩu Dì ngồi. Hai chiếc thúng phủ giấy dầu xanh và cái trẹt nhỏ trước mặt bày những trái ổi chờ bán cho khách qua đường. Dì ngồi yên lặng trầm ngâm, không thấy bao giờ Dì mời mọc chào đón khách. Cả những khi người đến mua đông, Dì vẫn cứ chậm rải, từ tốn. Khách hàng quen thuộc của Dì là đám học trò của Trường Tiểu học Xuân An nằm mé bên kia đường. Giờ ra chơi hoặc lúc tan học Dì bận bịu với đám học trò không hề rảnh tay. Cả đám bu lại lau nhau cãi vả, lựa trái này bỏ trái kia, giành qua giựt lại ồn ào. Khi cả đám học trò kéo nhau đi gánh ổi của Dì trở nên bừa bộn. Dì nhẫn nại sắp xếp lại từng trái vào cái trẹt nhỏ, quơ lượm từng trái ổi vung vãi xuống hè đường. Gọn gàng đâu đó rồi, Dì thong thả lấy cái khăn từ trong thúng cẩn thận lau từng trái. Dì biết chắc là số ổi vừa bán đi, trong đó, có một số thất thoát từ những bàn tay không lương thiện. Vậy mà tôi chưa nghe Dì phàn nàn về chuyện này. Có lần tôi nói với Dì :
- Hồi nãy con thấy có mấy đứa lựa ổi rồi bỏ đi không trả tiền cho Dì
Dì cười, hàm răng đen láng đều đặn :
- Làm răng mà tránh khỏi, con.
Rồi Dì vuốt đầu tôi, dịu dàng :
- Con đừng bao giờ làm chuyện nớ. Xấu lắm
Dì kéo tôi vô lòng, vỗ vỗ trên lưng tôi, nói nhỏ : “Tội nghiệp. Tội nghiệp cho con quá !”. Nước mắt Dì rớt xuống cái đầu trọc của tôi nóng ấm. Những lúc đó, có khi tôi khóc theo Dì. Có khi tôi quàng tay ôm lấy Dì rồi dụi đầu vô ngực Dì nũng nịu. Tôi nghe rõ tiếng đập của trái tim và hơi ấm lan tỏa trên từng vùng da mặt. Một cảm giác êm ái bình yên tràn ngập trong lòng tôi. Hai Dì cháu cứ ngồi yên như vậy và Dì thường kể chuyện về Mẹ tôi. Người Mẹ mà tôi chưa hề biết mặt, chỉ nhìn qua tấm ảnh thờ.
Tôi không còn Mẹ khi tôi vừa mới sinh ra vỏn vẹn chỉ có ba ngày. Sau này, nghe mọi người nói lại, Mẹ tôi mất vì sót nhau. Tôi không biết rõ về điều đó. Duy có một điều tôi biết chắc là tôi đã là một trẻ mồ côi Mẹ. Năm, tháng tuổi thơ tôi sống nhờ vào tình thương yêu của những người Mẹ cùng xóm. Những người Mẹ đang thời kỳ cho con bú. Tôi biết ơn những người Mẹ đầy lòng nhân từ đó. Các Mẹ đã chia sớt cho tôi những dòng sữa ngọt, đã nuôi tôi vượt qua một chặng tháng, năm dài khát sữa. Khi tôi bắt đầu biết ăn thì Chị tôi, rồi đến Anh tôi, thay nhau chăm sóc đút mớm hàng ngày. Tôi lớn lên, mập mạnh đỏ hồng. Tròn trịa như hột mít. Đôi má phính, hồng hào. Ai gặp tôi cũng thích bẹo má. Sau đó, nhìn tôi một hồi lâu, rồi khóc. Mọi người đều nói tôi con của Trời nuôi. Họ thương cảm hoàn cảnh mồ côi của tôi. Một đưá trẻ mồ côi Mẹ khi chỉ mới ba ngày thì quả là một điều quá thương tâm. Nhất là Dì, Dì là người đã dành nước mắt cho tôi nhiều nhất. Hầu như lúc nào gặp tôi, Dì cũng khóc. Có khi Dì khóc không cần che dấu. Có khi Dì âm thầm lặng lẽ lau những dòng nước mắt. Tôi thì ít quan tâm đến điều đó, chỉ nghĩ đến mấy tái ổi của Dì thôi ! Bởi vì, khi nào ghé thăm, Dì cũng dành cho tôi những trái ổi no tròn, ngon nhất mà chính tay Dì chọn. Tôi thì thèm đủ thứ !. Bụng lúc nào cũng cảm thấy lưng lửng, chưa no. Tôi có thể ăn bất cứ lúc nào và ăn món gì cũng được, không hề kén chọn. Sau này, khi lớn lên, thói quen đó vẫn còn giữ. Mọi người cho là tôi thuộc loại người dễ ăn ( hay ăn dễ !). Khôi hài chút, thì gọi là dễ nuôi !
Dì đi vào đời tôi lúc nào, tôi cũng không nhớ chính xác khoảng thời gian. Tôi chỉ nhớ có một lần, in như là vào dịp Tết Nguyên Đán, Cha tôi dẫn tôi đến thăm gia đình Dì. Nhà Dì ở giữa con dốc xóm Xuân An. Vừa gặp, chưa kịp chào hỏi, Dì đã ôm chầm lấy tôi. Dượng Tạo, chồng của Dì, đứng bên cạnh vội vàng nhắc nhở :
- Nì, mình đừng quên bữa ni là Tết đó nghe. Nín khóc. Nín khó
Dì không nói gì, ôm siết lấy tôi. Tôi nghe tiếng khóc cố đè nén của Dì thành những tiếng nấc nghẹn ngào từng nhịp một. Dì vuốt mãi cái đầu trọc tếu rồi bẹo hai má phính của tôi đến độ đỏ rần. Miệng Dì luôn xuýt xoa :” Tội nghiệp quá ! Tội nghiệp quá !”.Bữa đó, Dì cho tôi ăn đủ thứ. Nhưng món mà tôi nhớ nhất là món hồng sấy khô do Dì tự tay làm lấy. Khi ngâm vào nước âm ấm, trái hồng nở ra đều đặn, no tròn. Ăn có vị béo lại vừa dai vừa ngọt. Tôi cứ ăn hoài không biết chán. Hương vị đó tôi còn giữ mãi cho đến bây giờ.
Kể từ sau lần đó, tôi thường qua thăm Dì. Hai Dì cháu ngồi bên nhau ở ngã ba đầu con dốc, cạnh gánh ổi. Dì kể cho tôi nghe rất nhiều chuyện về Mẹ tôi. Nhờ Dì, tôi biết nhiều về Mẹ, nhất là quãng đời khi Mẹ tôi đang thời con gái. Thật ra, Dì không có liên hệ bà con gì với Mẹ tôi cả. Chỉ là bạn gái với nhau, ở cùng chung một Thôn. Thôn Vỹ Dạ. Sau khi lập gia đình, mỗi người lưu lạc mỗi nơi. Cha tôi, trong một dịp tình cờ, đã tìm được Dì và lần đến thăm Dì trong dịp Tết là lần đầu tiên. Dì cứ tiếc mãi là không gặp được Mẹ tôi sớm hơn trong lúc hai chị em cùng ở chung một thành phố. Niềm tiếc nuối ân hận đó Dì cứ nhắc mãi mỗi khi kể chuyện về Mẹ tôi. Theo lời Dì, Mẹ tôi là một người con gái rất hiền dịu. Tôi yêu Mẹ tôi qua những câu chuyện của Dì. Với tôi, Mẹ là một bà Tiên. Cứ mỗi lần kể chuyện xong, Dì thường khóc, rồi ôm tôi vào lòng. Tôi có một cảm giác thật bình yên và cứ tưởng tượng như là Mẹ đang ôm tôi. Đang ru tôi ngủ từ những câu chuyện kể về chốn quê xưa, về một thời con gái của Mẹ với nhiều kỷ niệm đẹp. Tôi quên đi cảnh sống đời thường đầy dẫy những trống vắng cô đơn. Chỉ khi tiếng trống của ngôi trường bên kia đường từng tiếng dội báo giờ ra chơi, tôi mới giật mình ngơ ngác. Dì cũng bắt đầu loay hoay chuẩn bị. Và đám học trò nhỏ bên kia đường ùa qua, vây quanh gánh ổi của Dì ồn ào, náo động.
Khi tôi trở về trên con đường vắng lặng, lòng tôi buồn man mát. Hơi ấm của vòng tay Dì tan loãng theo không khí lạnh trầm của đất trời Đàlạt. Qua ngã ba Mả Thánh, bao giờ tôi cũng thường đứng lại, tần ngần nhìn lên khoảng lưng chừng ngọn đồi. Mẹ tôi nằm trên đó. Những ngôi mộ tròn vun san sát khuất lấp trong những bụi cỏ tranh và những lùm sim dại. Vẻ hoang lạnh thâm u của ngọn đồi in trên nền trời xanh và những cơn gió hiu thổi ngược về từ hướng suối Cam Ly. Tôi thầm nghĩ Mẹ giờ này chắc là lạnh lắm. Và tôi khóc. Cứ mỗi lần thăm Dì trở về qua ngang ngã ba Mả Thánh, tâm trạng của tôi vẫn cứ đều như vậy.
Khi tôi bước chân vào bậc Trung học, những lần qua thăm Dì trở về, tôi không còn khóc nữa. Không phải vì lòng tôi đã cứng rắn hơn đâu!. Chỉ vì tháng, năm dài đã cho tôi ý nghĩ yên phận của một đứa bé mồ côi. Tôi đã quen dần đi những thiếu vắng bất hạnh của người không được may mắn là còn có Mẹ. Mỗi lần đến nhà các bạn học, tôi phải chứng kiến bao cảnh đầm ấm của gia đình bạn. Tôi biết rõ hơn, người Mẹ là chỗ dựa thân thương, là điểm tựa rất cần thiết trong tình cảm của những người bạn tôi. Nhìn những hình ảnh đó, tôi cũng thầm ao ước khát khao. Nhưng tôi nghĩ, mình làm sao có được. Và cứ mỗi lần như vậy, tôi thường cố tình lãng tránh. Trong lòng tôi dậy lên một cảm giác, không hẳn là buồn. Có một chút gì đó, ganh tị. Một chút gì đó, ấm ức và tủi thân !
Tuổi thơ tôi trải qua những năm, tháng buồn thảm. Tôi phải tự lo lấy thân mình. Tôi cũng hiểu rằng, giá như tôi còn Mẹ, Mẹ tôi sẽ lo lắng hết cho tôi. Nhưng tôi đâu còn có Mẹ nữa! Tôi phải tự lo lấy cho mình. Tôi không thể đòi hỏi ở anh chị tôi những điều gì hơn nữa. Bởi vì, xét cho cùng, anh chị tôi cũng như tôi, cũng là những trẻ mồ côi Mẹ. Có nhiều lần, tôi và người anh thứ hai của tôi, thường lên ngồi bên cạnh mộ Mẹ và khóc. Trong trí tưởng tượng thơ ngây của tôi, tôi nghĩ là Mẹ sẽ rất cảm động và sẽ hiện về ngồi bên cạnh chúng tôi, như là câu chuyện “Phạm Công Cúc Hoa” mà tôi đã được đọc. Theo như trong truyện, khi hai chị em Nghi Xuân Tấn Lực lên mộ Mẹ ngồi khóc ( cũng như hai anh em tôi đang ngồi khóc ) thì mẹ Cúc Hoa hiện về an ủi, vỗ về và hình như có bắt chí cho hai đứa con mình!
Nếu Mẹ tôi có hiện về, Mẹ khỏi phải bắt chí, vì đầu hai anh em tôi trọc lóc. Cứ hẳn dành thì giờ để nói chuyện. Tôi có nhiều chuyện, rất nhiều chuyện, để nói với Mẹ như tôi đã nói với Dì những lúc hai Dì cháu ngồi bên nhau.
Nhưng điều đó đã không bao giờ xảy ra ! Mẹ tôi vẫn nằm im lìm. Chỉ có tiếng gió và tiếng lao xao của cỏ cây. Hai anh em lủi thủi dắt nhau trở về. Tôi buồn và giận hờn Mẹ tôi lắm. Tôi nghĩ, Mẹ đã không còn thương tôi và chắc chắn là đã quên tôi rồi !
Sau những lần lên thăm Mẹ, tôi thường nói với Dì những ý nghĩ của mình và thắc mắc hỏi Dì tại sao Mẹ tôi lại không hiện về, dù chỉ là một chút, một chút thôi. Dì không trả lời những thắc mắc của tôi, chỉ ôm tôi vào lòng và khóc. Những lần như thế, số ổi dành cho tôi lại nhiều hơn. Sau này nghĩ lại, tôi thật thương hại cho tôi ngày ấy và thấy lòng thương cảm của Dì thật thâm trầm và đầy tâm lý.
Ngày đó, thì tôi vui. Bây giờ, tôi cảm thấy bùi ngùi. Chả trách gì được, cái thời thơ dại, ham ăn...
Qua hai năm Trung học tôi lại phải chuyển trường lên sống với người anh cả. Anh tôi đi làm ăn xa và không thể để tôi côi cút một mình.
Tôi còn nhớ, buổi trưa hôm ấy, anh tôi dắt tôi qua từ giã Dì. Chuyện quá đột ngột làm cho Dì tôi ngồi sững sờ một hồi lâu. Dì ôm tôi thật chặt như sợ rằng tôi sẽ vuột mất. Dì khóc lớn, không còn giữ gìn che giấu. Người qua đường nhìn ngó. Anh tôi bối rối, ngồi xuống bên cạnh Dì vỗ về an ủi. Tôi thì không khóc. Lòng tôi đang nôn nao nghĩ đến chuyến đi ngày mai. Nghĩ đến những điều mới lạ đang chờ đón tôi. Ở thành phố này, cuộc sống trải dài theo từng tháng năm đơn điệu và buồn thảm quá. Tôi sợ những con đường tôi vẫn thường đi qua, thui thủi một mình. Sợ những khung cảnh quen thuộc cứ hoài nhắc nhớ những hình ảnh, những kỷ niệm không lấy gì làm vui. Nói chung là tôi đang háo hức muốn được thay đổi một khung cảnh sống khác. Ở tuổi tôi lúc bấy giờ không rõ nét những ý niệm như thế. Chỉ đơn giản một điều là tôi không muốn, tôi sợ những năm tháng tôi phải cứ sống hoài với những buồn thảm. Tôi muốn được theo anh tôi vì tôi quá cô đơn. Ở một phương trời xa lạ nào đó, dầu sao cũng còn có anh tôi bên cạnh. Nếu tôi khóc vì buồn, vì giận hay vì điều gì đó thì vẫn còn có người dỗ dành an ủi...
Khi đứng lên để chuẩn bị theo anh tôi về, tôi nhìn thấy đôi mắt Dì đỏ hoe, những vết nhăn hằn dấu trên trán, trên má Dì. Tôi nhìn thấy những trái ổi nằm hỗn độn trong cái trẹt sứt vành, cái ghế đẩu bóng ngời nước gỗ. Tất cả, đã gợi lại rất nhanh trong tôi những ngày Dì, cháu còn bên nhau làm cho tôi xúc động, khóc ré lên. Anh tôi giật mình ôm lấy tôi nhưng tôi chòi tôi đạp tôi vùng vẫy và khóc to hơn nữa. Mấy trái ổi Dì nhét đầy trong hai túi quần tôi rớt ra vung vãi ngoài lề đường. Tôi nhoài người tới và ôm lấy Dì tôi....

*
Các em thân mến,
Câu chuyện anh chỉ viết đến đó. Đoạn kết thì chắc rằng các em cũng sẽ hiểu bởi vì tất cả, giờ đây đã thuộc về dĩ vãng. Nếu còn chăng là còn lại nỗi nhớ tìm về và ngậm ngùi cho những ngày tháng xa xưa và thân phận buồn tủi của một người mồ côi Mẹ.
Thiệt thòi lắm, các em ơi, những người không còn Mẹ! Bởi vì anh đã trải qua những năm tháng mồ côi anh hiểu. Hiểu đến nỗi, cho đến khi anh viết câu chuyện này, anh vẫn còn ‘thấy” được cảm giác và tâm trạng của chú bé mồ côi ngày xưa.
Năm, tháng dẫu đã qua đi nhưng nỗi xót đau thì vẫn gần, gần lắm. Trong mỗi chúng ta chỉ có một người Mẹ và chỉ một mà thôi. Nếu mất đi thì có còn gì thay thế được!
Hạnh phúc thay cho những người còn có Mẹ.
Với những em còn có được niềm hạnh-phúc-lớn-lao như thế, các em phải hết sức trân quý giữ gìn, hãy tận hưởng niềm hạnh phúc mà mình đang may mắn có được.
Hãy kính trọng, yêu thương Mẹ và hãy làm nũng với Mẹ nhiều hơn nữa đi các em.
Đau khổ thay cho những người không còn Mẹ.
Nếu có những em cùng hoàn cảnh như anh thì, các em ơi, các em hãy đọc câu chuyện này bởi vì câu chuyện, một phần nào đó, anh viết thay cho tâm trạng của các em. Anh và các em quả là những người không có được sự may mắn. Nhưng dầu sao đi nữa thì trong cuộc đời chung và trong cảnh đời riêng vẫn còn có những người Dì, những người anh, người chị và rất nhiều người khác chung quanh ta như trong câu chuyện anh viết . Chúng ta sẽ được an ủi biết bao từ những tấm lòng từ tâm đó.
Hãy tin vào cuộc sống như anh đã từng tin tưởng bởi vì chúng ta, chỉ là mồ côi mẹ chứ không phải là mồ-côi-tất-cả. Anh muốn nói với các em rằng, dù chúng ta đã mất đi một tình cảm lớn lao nhất nhưng bên cạnh đó, chúng ta vẫn còn những tình cảm khác, dẫu không lớn lao hơn nhưng ít ra cũng đủ để cho chúng ta ấm lòng....

tháng 5 03, 2011

HƯƠNG KHÓI CHIỀU NHỚ BA VỢ



trời tháng Năm nắng rát nóng quá chừng
Ba ghé qua thôi đừng đem áo lạnh
nhà bây giờ hai đứa con cô quạnh
có Ba về ngồi lại với đông vui

hương khói bay chiều cũng bớt bùi ngùi
cứ tưởng tới Ba đang ngồi đâu đó
con ngồi lặng đây góc buồn mắt đỏ
nỗi nhớ rưng rưng mấy chục năm rồi !

mấy chục năm hai đứa con mồ côi
vợ con thương Ba năm nào cũng nhớ
hương khói chiều bay dặm đường cách trở
Ba về nghe !. Hai con đợi Ba về !

về để ngó qua tang thương dâu bể
con vẫn là thằng rể tốt của Ba
nhớ cái xiết tay con đau nhói buổi chia xa
đôi mắt lạc thần Ba nhìn con-gái-rượu

là hiểu rồi Ba ưng lòng nhắn nuối
cho con được về ở rễ nhà Ba
mấy chục năm rồi đếm hoài không ngạ
hương khói chiều nay hai đứa ngó nhau

ngó nhau hoài mà không thấy Ba đâu
chỉ thấy khói nhang quyện vòng nỗi nhớ
hai đứa con giờ dặm đường cách trở
vẫn nhớ dáng Ba ngồi hong nắng hiên nhà….

Hiên Trăng nhà xưa
ngày giỗ Ba vợ 03/05/2011


*****


CHIA DÁNG NGỒI XƯA

tưởng nhớ về Ba vợ
nhân ngày sinh nhật buổi chiều đời của con


con nhớ Ba ngồi phơi nắng hiên nhà
Đàlạt tháng 5 trời dọn nắng chờ mưa
phơi nắng chi Ba mặc nhiều áo rứa
đeo kính đen con thấy cũng mất hồn
tay ăn trộm nào biết dại biết khôn
chắc không dám ghé nhà mình đâu hỉ
Mạ buôn trà La Ba sáng sớm đã đi
Ba đơn chiếc ngồi coi nhà phơi nắng
con trai của Ba đông đoài tản mạn
con gái Ba đi học ở Nhatrang
con lâu về Xóm nhỏ ghé ngang
thăm Ba vợ ngó quanh nhà đỡ nhớ
Ba biết tình con dành cho o nớ…

nắng tháng 5 trời Đàlạt buồn khô
Ba vợ ngồi dáng buồn hơn trời Đàlạt

mấy mươi năm rồi con còn giữ lại
vạt nắng mơi chiếc ghế đẩu Ba ngồi
cái áo bành-tô rộng dài quá khổ
đôi kính đen che nắng chói mắt mờ
con ghé về thăm áo trận giày saut
rồi vội đi để Ba ngồi thầm lặng
nhà đơn chiếc Ba chia lòng cùng nắng
chia tháng ngày theo căn bệnh già nua
không còn niềm vui cho cả bốn mùa
chỉ chút vui khi con về thăm vội
rồi ra đi nắng dọi chỗ Ba ngồi…

mấy mươi năm bóng chiều đời đang tới
con hiểu nỗi lòng Ba vợ hồi xưa…

Mira Mesa chiều 30/05/2009