tháng 3 11, 2012


Nắng lên quá lũy tre. Đám đàn bà lăng xăng chạy tới chạy lui lo trầu nước cho số người đi dự đám cải táng chú Tư Tỵ, em ông Hai Mẹo. Con nít ồn ào xô đẩy, giành giựt uống ké nước chanh đường để sẵn trong cái thùng thường dùng để nấu bánh tét. Rõ ràng tụi nó uống lấy no làm bà Mẹo cứ chạy lui chạy tới, cản không kịp. Anh thợ chụp hình đứng lên ngồi xuống nháy lia lịa. Có phim là có tiền mà. Giao hẹn trước rồi! Mấy bà, mấy cô cố tình đi qua đi lại trước ống kính làm dáng làm điệu và cười rất tươi. Đi lo chuyện cải táng mà làm như đi dự đám cưới, đám tiệc không bằng !
Ông Nẫm thì đang tả xung hữu đột hò hét om sòm. Mấy tay đàn em hiểu ý, đào xúc hối hả. Anh nào anh nấy mồ hôi nhễ nhại, ở trần trùng trục chẳng còn nghiêm chỉnh áo mũ gì nữa. Đất dập xuống, mặc dù đã lâu nhưng vẫn còn xốp đâu có chắc thịt như đất mới đào. Màu mè chút đỉnh mà. Kiểu dơ cao đánh khẽ. Nhưng mà trời nóng quá lại thêm tiếng ồn ào như vỡ chợ, khích động mấy cánh tay gân guốc miệt vườn nhịp nhàng như cái máy.
Chỉ có con heo quay vàng lườm là im lặng, buồn hiu bên mấy lề giấy vàng bạc và mịt mù hương khói.
Cả ông Hai Mẹo nữa!
Ông ngồi xếp bằng trên gò cao, có thằng Thửng đứng bên cầm dù che nắng. Mặt mày đã thấy đỏ. Chai rượu Johny Walker để trước mặt với hai cái ly nhỏ sóng sánh chất rượu thiệt hấp dẫn. Một ly cho ông và một ly dành cho chú Tư nó. Lát nữa đây thôi, chú lại nhìn thấy dương gian thì mời chú một ly gọi là phút giây tương ngộ. Âm dương cách trở, dịp trùng phùng cũng là dịp anh em tâm sự. Ông khẽ thở dài, với tay nâng ly rượu làm ngọt một hơi. Mùi rượu thơm lừng, vị nồng cay tê đầu lưỡi, nóng ran xuống từng khúc ruột. Ông lại rót tiếp một ly đầy, suy nghĩ mông lung về cuộc tử sinh, cảnh đời dâu bể. Mắt ông cay cay. Một cảm giác xốn xang, ray rức lôi kéo ông về lại những tháng ngày xưa cũ...
Hai anh em ông lưu lạc phương trời đến mảnh đất này theo đám đào vàng. Láng trại đầu tiên được dựng lên sơ sài ở thượng nguồn Sông Lớn. Hàng ngày đào sâu xuống lòng đất lấy lớp sái gồm đá cát trộn lẫn nhau rồi đem ra sông đãi gạn lấy vàng. Chỉ
là vàng cám, nhỏ li ti. Cả một thùng sái lớn chỉ đãi gạn đâu được chừng vài hạt nhỏ như đầu tăm. Công việc thiệt là cực khổ và đầy dẫy sự hiểm nguy. Lớp thì sợ sụp hầm. Lớp thì lo bệnh sốt rét.
Nhưng mà đói quá thì đầu gối phải bò. Hết đám người này chán nản bỏ đi, đám người khác lại hăng hái tìm tới. Cả một khoảng dài ven sông lở lói do đào bới, dập vùi lớp này qua lớp khác. Rừng măng le đã có lối mòn ngang dọc. Con sông cũng có bến phà đưa người qua kẻ lại. Quán hàng dựng lên để trao đổi thực phẩm. Để đón người mới đến và tiễn người cũ ra đi. Chú Tư Tỵ, em ông, là chủ phà còn ông là chủ quán. Hai anh em quyết bám trụ nơi mảnh đất này, đương đầu với đám người tứ xứ. Thôi thì đủ hạng người. Kẻ thì hiền hòa chất phác tìm tới đây vì chén cơm manh áo thật lòng. Người thì mặt xanh nanh vàng thích lấy chuyện ngang ngược mà đối xử với nhau. Ông trở thành con tắc kè. Ở trên cây thì trổ màu xanh, xuống đất thì ra màu nâu sậm. Khi cương lúc nhu, thoái bộ nhịp nhàng. Cuộc tranh sống đã dạy cho ông biết lúc nào cần gian dối lọc lừa, lúc nào cần thật thà chất phác để luồn lách qua những hiểm nguy luôn chực chờ. Thiệt đúng là vàng máu pha chung chớ đâu có dễ gì!
Riết rồi ông cũng không còn nhận ra ông nữa! Nhiều lúc cứ tự hỏi mình có phải là tay Hai Mẹo đó không và em ông, có phải là chú Tư Tỵ? Hai con người cùng khổ,bỏ làng bỏ xóm để tha phương cầu thực! Thiệt tình chỉ muốn kiếm miếng ăn nuôi thân chớ đâu có muốn vì miếng ăn mà trở lòng đổi dạ ra nông nổi là con tắc kè xanh-đỏ-tím-vàng!
Cũng may là cơn sốt vàng chỉ rộ lên một khoảng thời gian rồi hạ xuống. Lạnh tanh. Chỉ tội nghiệp khúc sông lở lói những hố hầm như bị băm vằm trăm mảnh. Từng đám người theo nhau lục tục ra đi chỉ còn lại một ít bám trụ, kiếm sống. Trời đất bao la, đi cho cùng kiệt thì cũng vậy thôi. Vàng đã phụ người, nhưng Đất, chắc là không. Hai anh em ông cùng với một số người ở lại phá rừng làm rẫy. Đất gò cao trồng bắp, đậu. Đất trũng nước gieo mạ, cấy lúa. Mùa đầu thu hoạch, nhìn nhau cười mừng mà rơi nước mắt. Mảnh đất tang thương đã thành nhịp sống mới. Cuộc đời nới rộng tầm tay đón người cùng khổ tha phương. Nhà cửa dựng lên. Thôn xóm hình thành. Tiếng khóc tiếng cười của đám con nít làm sinh động, khởi sắc nơi chốn xưa vốn thâm u khuất
lấp.Ông Mẹo lại khẽ thở dài nghĩ tới số người bám trụ ngày xưa đó, giờ đây còn có bao nhiêu!
Ông Chín Rựa bị cọp vồ mất xác ở thượng nguồn. Cô Ba Sang, theo đám người ngậm-ngải-tìm-trầm sau mùa bắp rẫy thứ hai, rồi biệt tăm biệt tích. Cô Năm Thiệt, giờ là vợ ông. Chú Tư thợ mộc, mang căn bệnh tê liệt nửa người từ khi bị cây đè lúc lên rừng xẻ gỗ dựng nhà. Bây giờ chú nằm một chỗ, hát hò suốt ngày cho nguôi khuây. Chú Tư Tỵ, em ông, đã nằm xuống sau một cơn sốt xuất huyết. Vợ chú bỏ đi liền sau đó, để lại thằng Thẻo. Ông buồn bực chuyện này lắm, trách Ông Trời sao nỡ để chú lâm vòng khổ nạn. Chú hiền như cục đất, ai nói chi cũng cứ nhe răng cười. Rồi còn ai nữa? À, ông nhớ tới một người nữa. Con người mau mắn, miệng nói tay làm. Đã từng một thời chia bùi xẻ ngọt, dầm mưa đội nắng cùng ông trên mảnh đất hoang vu chưa có dấu chân người. Trong gian nan khổ cực anh em vẫn quyết bám lấy nhau cho tới ngày hôm nay. Bữa đói cùng chia, bữa no cùng san sẻ. Thiệt như tình anh em thủ túc chớ phải chơi! Qua bao cảnh đời thay đổi vẫn giữ trọn sắt son tình nghĩa. Chỉ từ khi bắt được hơi tiền ngoại, ông tự thấy trong lòng lần hồi có sự đổi thay khác lạ. Mỗi ngày một chút, lâu rồi thành cơn bệnh trầm kha, khó bề chữa chạy. Cũng tại vì đói rách cùng khổ quá mà sinh hôn mê lú lẩn đó chăng! Đúng là bần cùng sinh đạo tặc. Con tắc kè xanh-đỏ-tím-vàng năm nào giờ đây lại hóa thân trong con người ông. Cái gì mà chén sành với lại chén kiểu! Chén mẻ hết trơn chú Bốn ơi! Đời tụi mình vớt lên từ cùng đinh khổ ải chớ có cao sang gì. Ví von kiểu này thiệt là hết thuốc chữa cho Hai Mẹo này quá. Tự nhiên ông thấy ngượng ngùng. Cầm ly rượu mà tay run. Ly rượu gạo của ngày nào chén chú chén anh ngọt ngào tình nghĩa. Còn ly rượu bây giờ! Đã có một khoảng cách ngăn rồi...
Ông ngửa cổ, dốc ly rượu, nưốt mạnh cho nỗi ngượng ngùng xấu hổ trôi tuột xuống cái lòng dạ đen bạc của ông. Chất rượu cay nồng như xé ruột gây cho ông một cảm giác xốn xang bứt rức. Ông day qua nói với thằng Thửng :
- Thửng, cháu xuống nhắn chú Bốn là bác có chuyện muốn bàn.
Thằng Thửng dạ một tiếng lớn, bỏ chiếc dù che xuống, chạy về phía đám người đang bu đen phía dưới. Lát sau, thấy ông Nẫm đi lên, mồ hôi nhễ nhại. Chưa tới nơi đã nghe tiếng :
- Sắp “tới” rồi, anh Hai. Cha, bữa nay trời nóng dữ!
Ông Mẹo không nói gì, rót đầy ly rượu, đưa ngang trước mặt ông Nẫm:
- Anh Bốn làm ngọt ly này đi, cho ấm bụng.
Ông Bốn Nẫm ngạc nhiên, sững người giây lát. Đầu óc ông chạy loạn một lúc rồi dừng lại ở ly rượu sóng sánh màu vàng hấp dẫn. Thái độ thân thiện bất ngờ của ông Mẹo làm cho ông cảm thấy có điều gì bất ổn. Như con nhím xù lông sẵn sàng ứng phó, ông thầm nghĩ :” Thằng cha này, định giở trò gì đây?”. Ông không thèm nhìn ly rượu, nói mát :
- Bụng dạ gì anh. Ba cái rượu Tây, rượu Mỹ xót bụng thì có, chớ ấm nỗi gì!
Ông Mẹo giật mình, ly rượu tràn sóng sánh. Phải như lúc khác, ông “chơi” tới luôn. Nhưng lúc này đây lòng ông đang ngổn ngang tâm sự. Ông khẽ thở dài ,dấu dịu:
- Bụng dạ thuở giờ, xót đó ấm đó. Lát nữa đây, chú Tư Tỵ lại về cùng ngọt ly với anh em mình, cho bỏ nhớ những ngày nào....
Mắt ông nhìn xa xăm. Ông Bốn Nẫm lại nhìn xa hơn nữa! Ở tận những tháng, năm bương chải ngày xưa khi chú Tư Tỵ tàn hơi kiệt sức, thở hắt từng hồi rồi lịm dần trong vòng tay ông. Sống mũi ông cay cay, lòng ông nôn nao một cảm giác khó tả. Ông chợt hiểu nỗi lòng của ông Hai Mẹo trong lúc này, nên đỡ lấy ly rượu :
- Vậy thì tui xin cạn ngọt cùng anh. Lát nữa đây, chú Tỵ...
Ông ngửa cổ, dốc cạn. Chất rượu như con nước vỡ bờ, tràn lũ dội ngược vào cuống họng rồi trôi tuột xuống, nóng ran từng khúc ruột. Từ thuở cha sinh mẹ đẻ tới giờ đây là lần đầu tiên ông được uống thứ rượu lạ lùng. Thơm nức mũi,cay nồng xé ruột mà công nhận là ngon. Không kềm chế được, ông “khà” lên một tiếng thiệt là sảng khoái. Ông Mẹo gật gù, tự rót thêm một ly cho mình, rót tràn thêm ly cho ông Bốn Nẫm. Hai cái ly cụng nhau nghe cái “cốp”, rượu sánh ra ngoài hết nửa. Phần còn lại chui ngọt vô hai cái miệng khát rượu. Lại rót thêm.
Nắng dọi rát đỉnh đầu. Đám người đi dự phần lớn tản mác tìm bóng râm ngồi tránh nắng. Anh thợ chụp hình đang lân la tán tỉnh mấy cô đang ngồi chụm nhau dưới gốc cây Sao. Cái miệng dẽo kẹo, con mắt láo liêng không lương thiện chút nào hết. Hiện trường chỉ còn lại mấy đứa con nít hiếu kỳ và bà Mẹo ngồi chồm hổm lom lom nhìn xuống lỗ huyệt. Mấy tay đàn em của ông Nẫm đã bắt đầu thấm mệt. Nhớ lời sư phụ dặn dò nên cố tình kéo rê thời giờ chút đỉnh cho đáng đồng tiền bát gạo của người ta. Mấy cái lưng trần đẫm ướt mồ hôi, dính đất bụi tèm nhẹp.
Ở trên gò, cuộc nhậu đang tới hồi sôi nổi. Ông Mẹo, da mặt đã trở xanh chàm. Ông Bốn Nẫm thì đỏ bầm như con tôm luộc. Cả hai ông ngồi bệt xuống đám cỏ khô, gật lên gật xuống thấy như là muốn ngả ngửa. Giọng ông Mẹo nhừa nhựa:
- Cái hồi mới tới nơi này đó, chú còn nhớ không? Vàng cục vàng hòn gì đâu, nếu không có cái rẫy bắp mùa đầu đó thì có mà cạp đất cạp đá...
Ông Nẫm gật gù ra chiều hiểu ý, giọng ông lè nhè :
- Dà, đất ở đây đá nhiều lắm ông anh ơi! Mấy thằng nhỏ “cạp” hoài mà chưa thấy tới. Nhưng mà phải tới chớ. Nhứt định tới mà, ông anh...
Ông Mẹo vỗ đùi cười sảng khoái, nâng ly rượu đã cạn queo, đưa qua đưa lại trước mặt ông Nẫm :
- Phải đa. Nè, tới luôn bác tài...
Ông ngửa cổ dốc ly rượu, sau đó, phun gió phèo phèo :
- Mẹ ơi, rượu gì lạt thách.
Rồi ông quơ tay tìm cái chai. Hai con mắt nhướn muốn hết nổi :
- Nói tới đâu rồi, thằng em. À, tới cái hồi tao không chịu làm con tắc kè. Con tắc kè xanh đỏ tím vàng đó. Đời nào tao chịu.
Ông Nẫm lại gật đầu, hưởng ứng nhiệt tình :
- Tui cũng chịu cái loại rượu tắc kè này lắm nghen. Uống có hậu với lại bổ nữa. Bổ cái vụ đó..đó, anh Hai.
Rồi ông bật cười khoái chí. Ông Hai Mẹo, tức thì, choàng tay qua vai ông Bốn Nẫm vỗ vỗ mấy cái, cười phụ họa
- Ừa, bỏ qua hết, bỏ qua hết. Thiệt là tay hảo hớn...
Vừa lúc đó, có tiếng ồn ào phía dưới. Mọi người túa lại bu đen trên lỗ huyệt. Thấy bà Mẹo bương bả chạy lên, quần áo xốc xếch, mặt mày nghiêm trọng. Tới bên ông Hai Mẹo, bà nói không kịp thở :
- Ông ơi! Ông ơi! Tới rồi, tới rồi. Chú Tư Tỵ...
Ông Bốn Nẫm giật nẩy người mất đà ngã ngửa ra phía sau. Ông Hai Mẹo thì cố nhướng cặp mắt ngó bà vợ đang đứng thở dồn dập :
- Bà nói cái gì tới? Mà làm gì tới đây?
Bà Mẹo cố nín hơi, nói gấp :
-Thì chú Tư Tỵ đó. “Tới” rồi...
Ông Hai Mẹo “hừ” một tiếng, lè nhè :
- Chú Tư Tỵ hả ?. Cái thằng mắc dịch, đi đâu nãy giờ mới mò tới? Bà làm ơn xuống nhắn nó lên đây, tui dạy việc.
Bà Hai Mẹo chỉ kịp kêu lên mấy tiếng “Úy Trời ơi!” rồi đứng sững. Mắt bà mở thao láo, miệng há hốc. Miếng thuốc trầu dính tòn ten bên mép, đung đưa qua lại theo nhịp thở giống cái quả lắc đồng hồ. Ông Mẹo nhìn thấy cảnh đó tự nhiên nổi “xung thiên”, nạt lớn :
- Bà còn chưa chịu đi?
Bà vẫn đứng sững như trời trồng. Trong khi đó ông Bốn Nẫm cố gắng hết sức lồm cồm ngồi dậy, miệng lắp bắp :
- Đi chớ. Đi chớ. Tui đi liền bây giờ nè...
Ông chống tay lấy sức đứng lên, người sàng qua đảo lại muốn bật ngửa. Cố bậm môi trợn mắt, ông đứng được nhưng hai chân cứ đá tới đá lui. Hai tay ông quơ qua quơ lại. Con mắt đỏ kè nhấp nháy liên hồi. Mặt mày ngơ ngác, ông phều phào :
- Ủa, mà đi đâu vậy hè !...


Hiên Trăng nhà cũ
San Diego

(trích XÓM ĐÌNH ĐA CÁT tuyển tập thơ văn 2000 )

Không có nhận xét nào: