tháng 10 04, 2009

TRĂNG THU


gởi đêm trăng xưa vạn dặm

Tự nhiên tôi được mệ Miên cho năm cắc.
Mệ hỏi :” Hôm qua, Trăng Thu, con có thấy chi không ?”.
Tôi nói :” Con thấy Trăng sáng như ban ngày. Thấy từng ngọn cỏ”.
Mệ giựt mình nhìn quanh, dáo dác,nói nhỏ :” Thấy Trăng thì ai không thấy nhưng mà có thấy chi thêm ngoài thấy Trăng không?”.
Tôi bỗng “ngộ” ra năm cắc mệ cho , ưng mệ cho thêm năm cắc nữa nên mới nói :” Con thấy mệ với anh Thuận thợ mộc. Anh với mệ làm chi mà con dị quá. Mệ rên rỉ...” Tới đây thì mệ lanh tay bịt miệng tôi,lại nhìn quanh dáo dác, nói giọng nhỏ hơn: ” Im, im. Chớ nói chuyện cùng ai nghen. Hứa với mệ đi rồi mệ cho thêm năm cắc nữa “.
Tôi hứa vì năm cắc với năm cắc là một đồng. Một đồng mà mua kẹo bi màu xanh đỏ tím vàng ăn cả ba ngày chưa hết. Mua đường táng vàng ăn một tuần còn dư. Ra tới chợ tỉnh mua cá với thịt cả nhà ăn một bữa đã đời đã thèm.
Tôi có nhận năm cắc với năm cắc là một đồng của mệ để rồi nợ mệ một đời khó trả được.
Câu chuyện đâu có đáng giá năm cắc với năm cắc là một đồng mà thiệt tình sáng rỡ như Trăng Rằm mùa Thu.
Có khúc có ngọn có đầu có đuôi.
Cái xóm nghèo cạp đất của tôi bỗng dưng , một ngày ham thả diều ở đồi Trọc, tôi không được chứng kiến có ôn dòng dõi vua chúa dọn về ở ngôi nhà to lớn đầu con dốc gần nhà thờ Chúa. Căn nhà gạch ngói duy nhất trong những căn nhà mái tole vách ván của xóm. Nằm riêng lẻ kín cổng cao tường và một khoảnh đất bao quanh xum xuê cây trái. Nó ngược ngạo cảnh đời cơ cực của xóm nghèo nên mãi mãi thầm lặng cô đơn. Có một khoảng cách ngăn vô hình và một cuộc sống gần như xa biệt với sinh hoạt của xóm nghèo.
Ôn dòng dõi vua chúa mang thân phận lạc loài trên vùng đất xúc hến mò cua miếng cơm đơm không đầy bát. Thi thoảng ôn có ra đường dạo quanh, đi phía sau, có mệ. Gọi là mệ mà cảm thấy ngường ngượng bởi còn trẻ ngó mê cái nước da trắng hồng và cái nét dịu dàng thanh tú. Chân lấm tay bùn vai u thịt bắp ở cái xóm quê tôi làm chi mà chiêm ngưỡng nổi. Nên chi e dè.
Ôn với mệ đi tới đâu là người giạt tránh nhường lối rộng rinh.
Tôi thấy người “kinh đô” như ôn có dáng vẻ thoát tục, không giống người thường. Người ta e dè tránh né vì tưởng tượng phía sau lưng ôn là cả một đền đài cung điện, áo mão cân đai, nghi thức triều đình...Nên cần phải giữ một khoảng cách lớn để được bình yên. Ngay giọng nói “kinh đô” cũng nặng âm, trại tiếng khó nghe. Ôn cũng già hung, giọng khàn đục, chậm rãi. Đôi con mắt nheo nheo ngó người đối diện, tôi nhớ hoài.
Mệ thì trẻ trung tươi mát, giọng nói không có “kinh đô” mà có hơi hướm miền Nam ruộng lúa thẳng cánh cò bay chó chạy le lưỡi.
Thi thoảng, thấy mệ “đơn thân độc mã” ra chợ Chiều mua miếng rau mớ thịt và cười nói thân tình với bà-con-cô-bác. Lời qua tiếng lại riết thân tình.
Không ai thấy mệ có nặng nề hình ảnh kinh thành triều nghi cung cách phía sau. Thí dụ như mệ mua bó hành, trả tiền, còn hậu hỉ biếu thêm chút đỉnh. Tiền “típ” đó nghen! Thiệt là văn minh miệt vườn mà đi trước thiên hạ.
Mệ cũng thường một mình đi dạo vòng quanh xóm, chắc là bỏ nỗi nhớ thương quê trên những con đường đất gập ghềnh mang vẻ dáng miền quê Nam ruộng lúa thẳng cánh cò bay chó chạy le lưỡi !

Một tháng, hay gần gần một tháng sau( tôi chưa dám xác định đúng thời gian vì vội viết câu chuyện này khi Trăng Thu đang lên sợ không kịp thì Trăng tàn, không còn dòng văn để viết ) tôi gặp tình cờ anh Thuận thợ mộc đang lai-rai-ba-sợi ở quán mụ Đối.
Chuyện xưa năm cắc với năm cắc là một đồng nhớ lại mà trong lòng, thiệt tình, cũng ấm ức vì đâu lại có chuyện "tiếc thay hạt gạo trắng ngần đã vo nước đục lại vần lửa rơm".
Không lẻ vì chuyện đời nhục dục tầm thường mà trâm anh thế phiệt lại tìm tới cái bào cái đục. Anh có cưỡng không. Hay người ta lại đang cầu.
Mấy miếng đường táng còn sót lại chưa ăn hết là lý do để tôi muốn biết cho ra lẽ. Cái chính đáng, thầm kín trong lòng, là tôi hết sức ngưỡng mộ nhân cách và hương sắc của mệ. Có đâu lại vần lửa rơm !
Chuyện hóa ra là không phải. Hoàn toàn hạt gạo vẫn trắng ngần đâu có thèm vo nước đục( thì lấy chi mà nói vần lửa rơm).
Đêm đó, trăng thu không chê cái xóm nghèo đói rách tã tơi, nên vẫn cứ ban ơn một dòng trăng thơ mộng rải đều, rải khắp, rải mọi nơi.
Ôn vì thời tiết trái gió trở trời đang từ hạ đột chuyển qua thu nên không cách chi gượng nổi để cùng dạo mát ngắm trăng . Mệ phải đi một mình vì mệ thích ngó trăng.
Ác nghiệt là xóm quê nghèo thương khó của tôi đường đất đá gập ghềnh lại có một một loài cây hoang dã mọc hoang đàng chi địa là cây cà dại.
Cây cà dại, nếu ai từng ở xóm quê, thì chắc chắn là không thể nào quên. Thân nhánh có gai, trái (nhỏ thôi) vằn vện màu xanh trắng. Tới mùa sai trái, bứt trái chẳng làm gì, chỉ bày chơi trò buôn bán hay ném nhau để tránh né cho vui thôi !
Buổi tối mệ đi ngắm trăng thu trên đường vô tình đạp nhằm cả một nhánh cà dại xum xuê ai đó bỏ lại trên đường. Gai nhánh cà gai đâm loạn đau xót bàn chân.
Cũng thời may, có anh Thuận thợ mộc trên đường say(không phải say Trăng)trở về mái nhà tranh ngó thấy thương tình, ôm bàn chưn mệ, mà gở cho hết nhúm gai đâm.
Mỗi lần gở một cái gai đâm là mỗi lần mệ rên lên vì vừa nhói đau vừa nhói đã sướng.
Tôi xách đèn đi qua, ngó thấy mà lạc hồn, bỏ đi luôn. Mắc cở và bàng hoàng không tưởng là sự thật.
Và, năm cắc với năm cắc là một đồng dành cho tôi chỉ để nén tiếng thị phi. Anh Thuận thợ mộc, có xác nhận, là anh còn nhận tiền bồi hoàn gấp năm lần. Nhiều quá vậy trời !
Hèn chi mụ Đối luôn luôn cười tươi rói với anh vì đã, thần sầu tới độ thảm sầu, trả dứt món nợ ghi chịu mỗi lần tới lai-rai-ba-sợi đỡ buồn đời.
Vậy mà anh còn chê là ít. Anh nói với tôi : “ Phải lúc đó gai đâm nhiều thêm tao có cơ hội mà ôm bàn chân trắng nõn trắng nường lâu lâu chút chút”. Thấy tôi còn ngu ngơ chưa hiểu, anh ký đầu tôi một cái (bây giờ tưởng tượng lại,vẫn thấy còn nhói nhói đau đau) nói : “ Cái thằng ni ! Mi là là thằng cu hay là thằng cụ”. Rồi cười vang, thoải mái.
Bây giờ mệ Miên đã là hương khói. Anh Thuận thợ mộc cũng đã là khói hương.
Trăng Thu thì mãi mãi vẫn còn.
Tôi cũng vẫn còn đây để ngắm trăng thu mà viết lại đôi dòng nhớ cái đêm trăng xưa vạn dặm mệ Miên và anh Thuận thợ mộc.
Riêng một điều tôi có nghĩ chưa ra là ôn già lụm cụm, mệ trẻ lứa bắp bung, anh thì hùng hục đục bào nhuần nhuyễn.
Đêm trăng xưa vạn dặm,ngày đó,có phải là gai đâm !....

Mira Mesa
Hiên Trăng Rằm 10/2009

Không có nhận xét nào: