đi mô cũng nhắc chuyện làng xóm quê....
Xóm quê tôi “tối lửa tắt đèn” nhà ai nấy ở, đường vắng
hoe. Gần mười giờ có chú A, nhà ở cuối dốc giếng Hai Vòi, đeo cái mỏ cầm cái
dùi, đi hết làng trên xóm dưới. Chú vừa gõ mõ vừa ê a bài học-thuộc-lòng nhắc
nhở mọi nhà coi chừng lửa bếp, coi chừng cửa nẻo, coi chừng...ngủ sớm để mai có
sức ra làm công việc nương rẫy, làm thợ làm thầy. Nói chung là khi tiếng mỏ đã
gióng lên từ làng trên xóm dưới là mọi người dân xóm đều biết đó là giờ giới
nghiêm, nhà ai nấy ở nội bất xuất ngoại bất nhập. Tráng đinh trong làng sẽ đi
tuần rỏn để giữ gìn an ninh trật tự cho bà con có giấc ngủ đầy.
Người lớn ai cũng gọi chú A là “thằng mõ”. Tôi nghe mà
trong lòng cứ chộn rộn xốn xang nỗi bất bình. Chú lớn tuổi rồi, có đông con và
cũng bắt đầu lai rai có vài đứa cháu nội ngoại. Vậy sao gọi là “thằng”?.
Tôi có đi dò hỏi quý đàn anh đàn chị, có vòng tay thưa bẩm xin
Cha tôi giải thích về danh xưng “thằng” riêng đối với chú A (Nguyễn văn).
Các anh, chị lớn không giải thích nổi vì mỗi lần gặp chú
thảy đều vòng tay thưa bẫm. Đâu có dám gọi “thằng”, chỉ một điều thưa hai điều
bẩm.
Cha tôi thì không nói rõ hết ngọn ngành, chỉ nhắc chừng
con có gặp chú thì phải chào hỏi lễ phép “tiên học lễ hậu học văn”. Chú cũng là
dân xóm làng mình. Ai cũng có phần việc riêng để chung lo phần việc xóm làng.
Hàng năm xuân thu nhị kỳ hay ba năm Làng vô hội kỳ yên
thấy chú chạy trong, ngoài mệt nghỉ theo lệnh sai bảo của quý vị chức sắc hội
tề. Chú tất bật luôn tay và cười vui luôn miệng. Chẳng khác chi là người ăn kẻ ở cuả xóm làng. Tôi thiệt lòng
thấy bất nhẩn bất ưng !
Tôi thương chú những đêm Đông trời lạnh giá vẫn nghe
tiếng mõ và tiếng chú ê a kéo dài lúc to lúc nhỏ hòa theo tiếng gió hú ngược
ngàn thung xanh về ngang qua Xóm.
Một thời gian sau này, lâu mau tôi không nhớ được, tiếng
mõ tự nhiên tan biến, đã không còn đêm đêm.
Thời thế đổi thay. Xóm làng cũng theo dòng thay đổi. Lớp
tráng đinh lần lượt lên đường đi quân dịch kỳ hạn ba năm.
Lúc nào không hay, đêm đêm làng xóm không còn có tiếng mõ
cầm canh với lời nhắc nhở. Quán mụ Đối vẫn đèn(dầu) khuya đối bóng mấy anh trai
làng nhậu nhẹt thâu đêm. Đường xóm khuya vẫn còn mấy chị thanh nữ hẹn hò tình
yêu về muộn. Lớp trẻ tụi tôi thả giàn những đêm Trăng sáng sân Đình. Tha hồ mà
bày vẻ những trò chơi tới hồi khuya lơ khuya lắc.
Coi như cái thời xa xưa đã vào cải tiến. Miếng đầu làng
to hơn sàng bếp đã đi vào thực tế, là không nên cần thiết. Bởi có to mà không
no thì thôi, xin đừng to theo kiểu no hơi danh lợi phù vân mây nổi mây trôi.
Ôn Cai Tư, là hương sư của nhiều thế hệ.
Tới thế hệ tôi ôn trở dáng chiều đời không còn nhanh nhẹn
đi đứng, không nhặm lẹ nói năng bác vật bởi mắc chứng lảng quên tuổi già.
Không trách. Chỉ trách con gà dĩa xôi cúng thầy buổi khai
tâm đã không chút sơ muối cho thằng học trò trỏ mắt nhịn thèm. Khi ngồi xếp
bằng bên cạnh đồng môn, nước miếng thèm ăn làm lạc giọng ê a bài học ..tử con tôn cháu lục sáu tam ba gia nhà
quốc nước tiền trước hậu sau...
Khi tôi vào trường tiểu học Đa Nghĩa thì nhường cái nhịn
thèm cho lớp đàn em trong Xóm. Ba tôi lại thêm một con gà và dĩa xôi cho em
tôi.
Những cái-nhịn-thèm cứ tiếp nối cho kỷ niệm xóm làng về
một người Thầy, không chỉ là đáng kính, mà đáng yêu trong suốt dòng chảy tuổi
thơ. Bọn trẻ xóm tôi không hề gọi là Thầy mà chỉ gọi là Ôn. Tiếng gọi níu thân
thương do từ tình Làng nghĩa Xóm.
Bởi khi gọi tiếng Thầy, nghe sao mà xa lạ không còn Xóm
còn Làng. Tiếng thầy, nghe ra vấp váp, xa lạ và không gần gụi thân thương bằng
tiếng Ôn.
Chỉ để rồi dần quen khi vào dòng học chính thống ở trường
Tiểu Học. Nơi có hệ thống theo cải tiến tân học tựa như con đường quê đất đá
qua con đường trải nhựa phẳng phiu !.Có ông Trưởng Ty Tiểu Học !
Ôn Cai Tư, mãi mãi muôn đời, là ôn Thầy của bao thế hệ
đàn anh đàn chị ( đàn tôi) đàn em của riêng cái xóm nghèo (trong muôn vạn xóm
nghèo) quê tôi.
Ôn đã khai tâm cho nhiều thế hệ, sau này vào đời, đã có
nhiều thành đạt.
Khi trở lại Làng quê Xóm cũ, quý vị giáo sư đã và đang
dạy học trò, khi nhắc lại thầy xưa, vẫn cứ gọi là ôn. Ôn của một thời đèn dầu
khô bấc. Ôn của một thời sân Làng vang lừng chiêng trống hội kỳ yên. Một thời
có “thằng mõ” đêm đêm nhắc nhở mọi nhà củi lửa coi chừng vạ lây trăm họ.Ôn của
tuổi khai tâm con gà dĩa xôi dọn đường chữ nghỉa vào đời khôn lớn.
( Anh Vĩnh Nghi
( con của “mệ” Bửu Thực) thủ khoa khóa 17 Võ Bị Quốc Gia Đàlạt , khi về lại xóm
nhỏ, xoa đầu tụi tôi nói các em gắng lên để cái sàng bếp xóm mình to ngang
bằng, và sánh ngang bằng cái đầu nước, chớ không phải( và đừng phải) cái đầu
làng. Anh hồi nớ cũng có ôn cai Tư khai tâm như lớp trẻ tụi em. Cũng có cái
nhịn thèm miếng thịt gà miếng xôi có khác chi đâu !)
Tụi trẻ xóm tôi ngưỡng mộ gương mẫu của anh, gắng giành
nhau để vượt khó để sớt cái đầu làng mà lên cái đầu nước. Khi tụi tôi bắt đầu
vào đời với các chuyên khoa Đại Học, vào quân trường thì Thiếu tá Vĩnh Nghi ngả
xuống trong trận chiến Mậu Thân 1968 !).
( Anh Phạm Liêu
(con của ôn Phạm Lào) giáo sư trường Võ Tánh Nha Trang cũng có về qua Xóm. Tính
ông ít nói ít cười( chỉ hiếm hoi cười trong niên học là vào dịp tất niên “đãi”
học trò về ăn Tết và dịp hết niên học “tiễn” học trò lên lớp trên).Tôi gọi ông
là anh, không là Thầy, vì ông là anh vợ, tôi lại không là học trò Võ Tánh Nha
Trang. Ông nghiêm nghị cỡ nào thì , khi đọc bài viết này, quý anh một thời võ-tánh-nha-trang[nếu tình cờ đọc
bài viết này] chắc biết. Không chừng góp
thêm vài “giai thoại” về tính nghiêm nghị của ông.)
Khi anh về xóm nhỏ, nhắc chuyện khai tâm, anh vẫn gọi thân
thương là ôn Cai Tư của Xóm mình.
Còn nhiều, nhiều lắm, những anh những chị đã một thời ...lục sáu tam ba gia nhà quốc nước tiền
trước hậu sau.. đã vào đời, đã nên danh nên phận từ buổi khai tâm con-
gà-dĩa-xôi với Ôn cai Tư của Xóm quê mình : xóm đình Đa Cát.
Chỉ nhắc tượng trưng hai anh gần gụi nhất, một bên văn
một bên võ, để nhói nỗi nhớ thương về một nơi chốn mà khi ở thì thấy như là rất
bình thường mà khi dứt bỏ ra đi lại ray rứt nhớ thương.
Anh Vĩnh Nghi đã thật sự đi xa rồi !
Anh Phạm Liêu, nay vẫn còn bám trụ ở Nha Trang, đã hưu
trí. Mở một kệ sách cho thuê để kiếm sống qua ngày thêm dặm vào lương hưu ít ỏi
cho một nhà giáo lưu dung....
Mấy Ôn mấy Mệ thì nói chi !. Những người trăm năm cũ hồn ở đâu bây giờ....
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét