tưởng nhớ anh
Trần Phan Hàm
Tấm ảnh chụp khoảng thời gian anh đi vùng kinh tế mới,
đứng trước ngôi nhà tranh vách đất. Mảnh ruộng trước sân nhà vừa nhú mạ non.
Mấy cây bơ, chùm ruột, xoài, mít Tố Nữ trồng quanh sân chỉ vừa mới bám rễ. Anh
mơ ước mai này tụi nó lớn khôn cho anh trái ngọt lại còn chia cho cả gia đình
bóng mát. Chiều chiều ra ngồi dưới gốc nhâm nhi xị rượu, rít mấy hơi thuốc lào,
nhìn ngắm cơ ngơi của mình mà say!. Không phải cái say của rượu, của thuốc lào !.
Cái say của khát vọng khởi lên từ cuộc sống trên vùng đất kinh tế mới còn hoang
sơ chưa đậm dấu chân người. Cái say này mới thiệt là hung bạo. Nó làm cho anh
râu tóc dã nhân, hình hài khô cá mắm. Sức trai bỏ xuống ruộng nương cho mầm
xanh vươn lên lớn mạnh. Bắt anh tráo trở hình hài lọc lừa sức lực để gìa trước
tuổi. Khi trái gió trở trời thường hay rêm nhức và khó tìm giấc ngủ.Vợ con anh
cũng nhập vòng xoay đến mắt mờ da xanh tái. Đời sống nghiêng chéo những lo toan
tính toán.
Tấm ảnh
này là anh chụp lại hình dong của năm thứ hai khi vào vùng kinh tế mới. Đó là
những năm, tháng đã qua . Như mầm mạ non nhú xanh trở mình thành cây lúa mang
nặng những hạt thì con gái.
Khi tôi
lên thăm anh đã vào vụ lúa của năm thứ năm. Vụ bắp và đậu nhỏ thua hai tuổi.
Tấm ảnh xưa đã được giữ làm kỷ niệm đánh dấu một chặng đường đời. Bây giờ nhìn
anh với người trong ảnh thấy xa, đã đành, mà thấy lạ quá nhìn không ra. Cảnh
nhà cũng khác. Đám ruộng trước nhà không còn. Thay vào đó là một khoảng sân đất
rộng dành để phơi đậu ,bắp và lúa theo từng mùa. Hàng cây ăn trái đã xanh, cao,
có bóng mát và có trái.
Chiều
chiều anh đâu có ngồi dưới bóng cây như ngày nào mơ ước.
Anh
ngồi trong gian nhà giữa, có bộ bàn ghế được đóng bằng loại gỗ quý, bóng lưỡng.
Có tủ trà đồ sộ, chạm long lân quy phụng. Tầng trên làm bàn thờ .Tầng giữa là
tủ kính chưng bày đủ thứ. Từ bộ bình, tách trà men sứ trắng đến những con thú
nhồi bông đủ màu sắc, quá độ thời gian, đã chớm ngả màu. Anh vẫn cứ thường ngồi
đó, mỗi chiều nhâm nhi xị đế hút miếng thuốc lào nhả khói trầm tư mà nhìn lại
những năm tháng cơ cực để có được ngày hôm nay. Từ mảnh đất cằn khô và đôi bàn
tay chưa một lần chai sạn để rồi có được cơ ngơi bề thế hôm nay. Mảnh vườn cây
trái sum xuê. Bốn sào ruộng cấy gặt đều đặn theo mùa. Một mẫu đất rẫy nương
chia thời điểm để trồng đậu, trồng bắp. Hai con bò cày chăm chỉ sớm hôm. Đàn gà
tranh ăn không đếm xuể. Cái cặp-táp nặng giấy tờ mỗi lần lên họp hành trên Ủy
ban nông nghiệp Thị trấn bàn kế hoạch thi đua cho hợp tác xã. Miếng rau dưa xưa
đã có chen thêm nồi thịt, cá. Thịt thì nhà tự cung tự cầu. Cá thì có từ nguồn
sông Krông Nô. Anh chỉ thiếu có tình anh em lâu ngày không tìm thấy được. Cứ
khoảng vài ba năm, tôi lại lên thăm anh dẫu đường rất xa, phải đi qua nhiều
chặng. Bởi vì anh ở vùng cao, vùng xa. Tôi thường cứ văn chương lộng gió gọi nơi
chốn anh an cư lập nghiệp là Thị trấn vùng cao.
Muốn
tới thăm anh tôi phải về vùng Biển nắng rồi từ đó ngược lên vùng cao ngất núi
đồi bụi mù đất đỏ. Lại còn thêm một đoạn đường gập ghềnh nhiêu khê để tới với
anh. Nắm được bàn tay anh không phải là dễ dàng nhưng vì tình thương nhớ mà
phải bôn ba. Thường thì khi nắm được bàn tay nhau, tôi mệt nhừ mệt đuối vì
đường xa quá là xa. Anh ở chi xa quá, anh Hàm. Nếu không thương anh chắc là,
thôi, bỏ cuộc.
Có điều
an ủi là khi đến thăm anh là phải về vùng biển nắng Nhatrang , có dịp gặp O Vân
Dượng Phú, Nhà Tôi lại có dịp gặp anh Năm Liêu.
Vượt
lên vùng cao bụi mù đất đỏ Banmêthuột có
dịp gặp anh chị Phước, gặp lại bạn bè một thời trung học.
Rồi từ
đó khởi đi là gặp anh chị và các cháu. Cơm ngày ba bữa theo cung cách nhà nông.
Rượu uống từ chiều tới tối theo cung cách hảo hớn Võ Tòng Lương Sơn Bạc. Có cải
lương, có tân nhạc. Mà nhạc sống hẳn hòi vì thị trấn chưa hề có điện. Trong nhà
thắp đèn dầu leo lét. Ra đường thắp đuốc bập bùng. Mấy tay nhậu tự biên tự diễn.
Cải lương thì Lương Sơn Bá Chúc Anh Đài, Đời Cô Lựu, Tình Anh Bán Chiếu…. Tân
nhạc thì không có nhạc mang hơi hướm cao sang ướt át xa lạ cảnh đời lam lũ,
chỉ nhạc lính, nhạc tình cảm nông thôn
thôi. Đại khái như là… tôi ở miền xa trời
quen đất lạ nhiều đông lắm hạ nối tiếp đi qua thiếu bóng đàn bà…mười năm lính
khổ…viết bởi…hay là …em ơi nếu mộng
không thành thì sao…non cao đất rộng biết đâu mà tìm…
Duy
Khánh, Hùng Cường, Mai Lệ Huyền cũng kéo vô bàn nhậu. Tùng Lâm cũng vô luôn,
cho tới khuya…
Những
đêm tưng bừng anh mời bạn bè tới chia vui cốt chỉ giới thiệu chú em vừa lên
thăm ( bên cạnh đó) cũng có ý nhắc chừng với cư dân là anh lên tới chốn này
không phải là kẻ lạc chợ trôi sông, cô thân ly xứ mà còn có gia phả, gốc gác họ
hàng, có người thân lui tới.
Thường thì anh em vẫn thầm lặng ngồi bên nhau hay nói
đúng hơn là ngồi bên ly rượu với nhau. Tôi thích ngồi ở góc sân nhỏ sau nhà gần
chái bếp khói um thân mật, có cái giếng nước chân quê, có mấy đám rau húng rau
răm rau ngò gai rau tía tô với giàn mồng tơi xanh mướt. Có đám gà lau nhau chạy
qua chạy lại giành ăn. Lâu lâu có con chim sà xuống cây chùm ruột rồi bay đậu
cây xoài hót tiếng nghe hương-đồng-gió-nội. Thấy chị đang rộn ràng lo chiên xào
đồ nhậu cho anh và chú mà nghe lòng đằm thắm tình thân. Chị luôn luôn có sẵn,
khi chú lên thăm, là một nồi bắp luộc vì biết chú rất thích . Nếu lên trái mùa
bắp thì, thay vào đó, có nồi đậu phọng luộc.
Chị còn chưa biết là tôi còn khoái món khoai lang
nhưng không phải luộc, mà lùi.
Khoai lang lùi. Như ôn Phạm Duy viết nhạc... “ khoai lùi bếp nướng...ngon hơn là vàng...”.
Vùng đất Krông Ana nơi anh ở, tôi không thấy rộ mùa
khoai lang. Chỉ có mùa lúa. Mùa bắp. Mùa đậu xanh. Mùa khoai mì.
Mùa nào theo
mùa đó, vừa thu hoạch vửa nhậu. Trúng mùa lúa thì nhậu. Trúng đậu thì cũng
nhậu. Trúng bắp thì cũng nhậu luôn. Bởi có gì đâu !. Đời sống vùng cao chỉ có
bấy nhiêu thôi !. Không điện thì không đài, không văn minh phương tiện truyền
hình vi-đê-ô ka-rô-kê . Chỉ có vô vô ( trăm phần trăm ) cho qua hoàng hôn, qua đêm tối quá dài, qua tháng ngày quá oải.
Cái thú vui khỏa lấp cho những khoảng thời giờ rảnh
rỗi là ngồi bên nhau, cầm chưn nhau, giữ nhau, níu nhau, cần thiết có nhau là
chia chung bữa rượu, chung miếng mồi đặc sản và ghé hơi thuốc đẫy đà. Chị thì
chỉ ngồi ngồi bên anh và chú để góp chuyện đời ôn-cố-tri-tân. Nhưng cũng có
nhiều buổi họp họp đông vui hàng xóm, tôi rất ngỡ ngàng, thấy mấy chị ngồi bên góp chuyện mà có thêm
ly rượu chia phần !. Trăm phần trăm cũng chia tới luôn !.
Thỉnh
thoảng anh dẫn tôi lên chợ thị trấn để tìm món đặc sản. Anh nói ở đây có món
nai đồng quê tuyệt chiêu nhưng anh em mình không quen, không hề đụng đũa. Còn
có thêm món cá sông Nô và món tiết canh, cháo lòng heo Thượng.
Cá sông
Nô thì ngon ngọt theo mùa. Heo Thượng thì phải vào tận buôn bản để mua ( hay
đổi lúa, bắp, muối ) nguyên con và phải chính tay mình chế biến mới ngon, người
Thượng họ không làm được. Ra quán thì cũng có nhưng heo người Thượng mà nuôi ở
nhà người Kinh thì không còn giữ được hương vị đặc sản.
Cũng
như bắp rẫy khi đã qua suối qua sông thì giảm đi rất nhiều vị ngọt ban đầu !.
Ngọt bắp ban đầu với ngọt qua suối qua sông tôi thấy
không có gì khác. Chỉ khác là bắp từ rẫy nương thì tươi nguyên roi rói, còn bắp
qua sông qua suối thì…trong héo mà ngoài tươi !.
Heo Thượng nuôi ở Buôn Làng thì thả rong suốt ngày,
miếng ăn phải tự kiếm. Không có chuồng trại cũng không cả nề nếp khẩu phần đúng
giờ đúng bữa. Cứ suốt ngày nhởn nhơ giữa thiên nhiên khoáng đạt, đói kiếm miếng
nhai, khát tìm miếng uống như câu hỏi và câu trả lời khôi hài : “ Con cóc cụt đuôi. Ai nuôi mày lớn. Dạ,
thưa Bà. Con lớn mình con!”.
Cũng như con cá khi đang dãy dụa trong lưới giăng vẫn
ngọt thịt thơm hương hơn là con cá bơi
lội trong thau bày bán giữa chợ.
Là tươi là sống cả nhưng cái tươi sống giữa thiên
nhiên hoang dã nó đã khác xa cái tươi sống của thị thành !.
Chai rượu chưng cất ở nhà, cũng vậy, đậm nồng hương vị hơn là mua ở quán. Cũng là rượu nhưng miếng rượu chưng cất ở nhà tình nghĩa
hơn là miếng rượu quán chia chung chia chạ, ai mua cũng được, mua lúc nào cũng
có. Rượu nhà cầu kỳ và nhiêu khê hơn. Chưng cất cầu kỳ và nhiêu khê nên rất là
chừng mực đâu phải lúc nào cũng có!. Lại không phải mua bán đong đếm lỗ lời !.
Rượu tuy là cho không, uống không, nhưng trả bằng tình bằng nghĩa.
Mỗi lần tôi lên thăm, được uống chai rượu nghĩa tình
anh tự tay chưng cất để cứ mãi vương hương cho những ngày xa cách.
Thường
trên đường từ chợ Thị trấn về, hai anh em thể nào cũng không quên ghé vào quán
anh Thủy. Quán nhỏ bên đường nhưng chiều nào cũng đông khách vì có món nai đồng
quê danh trấn giang hồ. Vào chỉ để cầu được uống ly rượu nếp than, không ngó
ngàng chi món nhậu. Rượu này không bày bán vì cũng đã thuộc vào loại rượu cho
không uống không nhưng trả bằng tình nghĩa.
Mỗi lần thấy ông anh kết nghĩa, ngả nghiêng, đi vào
quán là anh Thủy vội vàng giao hết công việc bận rộn cho vợ con để tiếp đón.
Nhà ở phía sau quán, cách một khoảnh sân đất phẳng lì dùng để phơi lúa, bắp.
Phòng khách cũng có bộ bàn ghế được đóng bằng loại gỗ quý, bóng lưỡng. Có tủ
trà đồ sộ, chạm long lân quy phụng. Tầng trên làm bàn thờ. Tầng giữa là tủ kính
chưng bày đủ thứ. Một mốt thời trang
chung ở Thị trấn dành cho những gia đình làm ăn đang hồi khấm khá. Không
có những con thú nhồi bông mang vẻ dáng thành phố văn minh như nhà anh Hàm nhưng
nhà anh Thủy có chưng một bình rượu nếp than bề thế. Màu rượu đã ngả ra nâu
vàng trong như hổ phách. Đáy bình đọng dày một lớp bột nếp mịn màng ngả màu
hoàng yến. Hai chiếc ly nhỏ thủy tinh mỏng nhánh, trong suốt đặt cạnh hai bên
bình rượu.
Ly rượu nghĩa tình tương kính mời nhau trong thầm lặng
và chỉ mỗi người một ly để thưởng thức trong không khí hoàn toàn im ắng. Bình
rượu lại được trân trọng để vào chỗ cũ cho
thời gian dậy thêm hương vị đậm đà mang danh giá cao sang của loại rượu
cất giấu lâu năm.
Rượu lâu năm dậy hương cũng giống như tình nghĩa thảo thơm lâu năm mà không có
chi, không có lý do nào để, một sớm một chiều, làm nên sứt rồi mẻ.
Buổi nhậu hào hứng ồn ào sôi nổi khác với buổi nhậu
lặng thầm.
Uống ly rượu lặng thầm lại càng khác xa với những ly
rượu trăm-phần-trăm.
Cuộc đời vốn sôi nổi và, rất cần sôi nổi, để quên đi
những chặng đường gian khổ trong những tháng, năm dài buộc phải tiếp nối dòng
sống trong cuộc bể dâu. Nhưng sau phần sôi nổi, chuyện đời thường đi đến đâu làm
sao biết được!.
Cũng như sau một buổi nhậu ồn ào náo nhiệt. Rượu chắc
chắn trăm phần trăm là có đầy và có vơi nhưng chung cuộc mới thấy được rượu đời
thường vẫn có nhiều ngộ nhận riêng tư từ hỉ-nộ-ái-ố. Để dễ xa nhau và để tìm gần
nhau. Thường thì rất dễ xa nhau và nếu tìm nhau được thì cũng là tìm nhau mà
không thấy nhau !.
Có thể là anh đã từng cay đắng ngọt bùi nếm trải nên,
bên cạnh những sôi nổi ồn ào, còn tìm
lại những thầm lặng để vực mình đứng dậy đi tiếp phần đời còn lại. Để thấy mình
còn có chỗ nương thân và thấy được mình còn có ý nghĩa khi bên cạnh mình còn có
ly rượu lặng thầm. Không hề sôi nổi. Chỉ lặng thầm khi rót rượu. Lặng thầm khi
mời nhau. Lặng thầm là không nói ra lời nhưng chính cái lặng thầm không nói,
vốn là, đã nói nhiều lời trong cuộc sống.
Tôi nhiều năm cứ suy nghĩ và không hiểu nổi sự lặng
thầm của các anh. Ở cái xứ giang hồ tứ xứ tranh bá đồ vương, giành giựt nhau
tranh sống, sôi nổi ồn ào từ bàn nhậu ra tới cả cảnh đời thường. Các anh vẫn
hòa nhập những ồn ào sôi nổi theo dòng nhưng vẫn giữ được cái lặng thầm đáng
nể.
Uống ly rượu lặng thầm và chia tay lặng thầm. Một
triết lý sống trên vùng đất hoang dã tình đời và hời hợt tình người đó chăng ?.
Trong hoàn cảnh và điều kiện nghiệt ngả ở vùng đất
chưa có trật tự ngăn nắp của nếp sống văn minh, tôi vẫn tìm lên thăm anh. Hai
anh em có những ngày hiếm hoi bên nhau để chia xớt rất nhiều kỷ niệm.
Hồi xưa, là khi hồi nhỏ đó mà, anh em mình tranh nhau
hái những trái thù lù vàng óng chín muồi mọc bên cạnh mộ Mạ. Anh luôn hái đều
tay và nhiều hơn, em không chịu và khóc.
Anh phải dỗ dành chia lại phần anh, em chưa chịu, lại càng phụng phịu dỗi hờn.
Cuối cùng, phần anh hái được bao nhiêu, em dần dần ăn hết. Coi như là mười-phần-trăm, anh chỉ còn lại, tính theo
thực tiễn khô khan tình cảm của thằng em tham ăn và đầy nước mắt. Giờ nghĩ lại,
thấy rưng lòng muốn khóc. Biết lòng anh hồi đó thương em…
Giờ,
qua con đường trơn trượt chằng chịt những dấu chân trâu chân bò sau cơn mưa
chiều hôm qua để anh, một tay, nắm tay tôi sợ chú em không quen đường đi, mà
ngả trượt. Một tay ôm khư khư chai rượu dành cho chú em vui với anh suốt một
đêm này, hội ngộ. Đường chiều nhá nhem nhìn không thấy rõ mặt đường. Nghe tiếng
ễnh ương, tiếng dế gọi đêm trường và tiếng cười của anh khi thấy chú em nghiêng
ngả trên mô đất bùn trơn ướt, hốt hoảng chụp níu vai anh.
Đêm giữa dòng Trăng và có khi đêm đen thăm thẳm, đêm
lất phất mưa mùa, anh em vẫn ngồi bên nhau chia những giờ phút hội ngộ. Sợ mai
này chia xa, khó có dịp nào ngồi lại bên nhau. Nõ thuốc chuyền cho nhau hơi ấm.
Ly rượu chuyền cho nhau những tháng năm anh em mình gắn bó…
Tôi nhớ quá, những tháng ngày qua đi, còn giữ lại
những hình ảnh khắn khít tình anh em.
Ngày tháng khi anh trấn nhậm ở vùng Pleiku, tôi lặn
lội tìm thăm anh chị ở khu gia binh. Muốn mua miếng thịt để anh em ngồi lai rai
cũng phải mất cả nửa buổi đường xa vất vả. Anh đã chia cái mỏi mệt đường xa đó
để chỉ níu lấy một tối ngồi với nhau tâm sự vơi đầy…
Ngày tháng khi anh chị ở túp lều nhỏ dưới chân đồi
Trọc xóm quê mình. Tôi vẫn thường ghé qua rau dưa đạm bạc những bữa cơm chiều.
Hồi đó, cháu Thùy Anh còn rất nhỏ…
Ngày tháng khi anh chị dọn về thuê căn
phòng nhỏ ở đường Cường Để, gần khách sạn Mai Anh Đào, tôi thường xuyên ghé lại
chăm lo cho các cháu. Cháu Kinh Hùng, Tuấn Kiệt cứ đòi chú kể chuyện đời xưa…
Ngày tháng anh dời đổi về Nhatrang, tôi
cũng lặn lội tìm về. Những bữa cơm gia đình có mùi biển mặn tôm cua cá mực. Có
cả cậu Hào và, có đôi lần, gặp anh Thích cũng về thăm.
Ngày tháng anh về vùng kinh tế mới
Krông-Ana, tôi cũng lặn lội nhiêu khê suốt chặng đường dài mịt mù đồi núi hoang
sơ, để tìm gặp anh. Có dịp để đưa cả gia đình lên hưởng thú đồng quê. Cu
Trí bé Quyên tha hồ ăn bắp nếp. Sau vài năm, lại thêm Cu Đào, bé Út lên đòi bác
nấu bắp, luộc gà để đã thèm cơn đói trong thời buổi gạo châu củi quế. Bắp nhà
bác trồng bạt ngàn đồi núi. Gà bác nuôi chen lấn đầy sân. Bác còn lặn lội ra
ngoài thị trấn tìm mua cá sông Nô. Cá chiên vàng rộm. Cá nướng giòn rụm da. Các
cháu tha hồ vả đói. Tiếng là đi thăm nhưng thiệt tình là đi tìm cơn trả đói.
Đó là những tháng năm lấy nông thôn bao vây thành thị.
Bác giải vây cơn đói khát cho các cháu từ những miếng ăn mang hương đồng gió
nội.
Không như thành thị, khó tìm. Ở đồng quê, mọi thứ đều
có sẵn. Cá lấy từ dòng sông Krông Nô.
Thịt lấy từ sân vườn. Bắp đậu lấy từ nương rẫy. Gạo từ ruộng nhà. Phần riêng
cho ba của các cháu : rượu tự chưng tự cất bằng lúa gạo làm ra. Nếu muốn thưởng
thức loại rượu Cần, đặc sản của miền rừng núi Tây Nguyên, thì tìm tới các Buôn
Làng Krông Ana. Một cặp gà đổi lấy bình rượu Cần, loại nhỏ. Nhỏ, nhưng mà uống
vô thì, không chừng, say to.
Ngày tháng anh về ở nhà O Dượng Phú,
chia ngọt vị rượu nồng cay Xóm Mới. Ăn miếng cá thơm lừng, miếng mực tươi ngọt
lịm ghém với miếng rau thơm vườn nhà O Vân mà giữ hoài hương ngát biển mặn Đồng
Đế, Ba Làng. Và tắm biển, ngắm biển…
Ngày tháng quê nhà còn lại bên anh quá
nhiều kỷ niệm.
Lần cuối cùng gặp anh là…
Tháng-Mười-Hai ở vùng núi, lạnh khô và trời trong
xanh. Buồn rưng trong cái tĩnh lặng của buổi đầu ngày. Có con chim mang tiếng
hót hay vừa xà xuống cây Chùm Ruột, rồi bay lên, đổi hướng về phía rẫy bắp rũ
rượi ngả nghiêng sau mùa thu hoạch. Tiếng hót
như có nỗi đau lạc bầy, nghe hay mà buồn buồn.
Mà buồn thiệt nghen anh !.
Thấy anh đang ngồi ngắt từng đọt rau Răm ở mảnh vườn nhỏ
dưới giàn Mồng Tơi xanh um lá, để chuẩn bị cho dĩa gà xé phay đãi chú em ngày
hội ngộ lần cuối, trước khi chú dời xa quê hương, cũng đủ để rưng lòng. Dáng
anh gầy khô chắc là vì miếng đói miếng no hành khốn đốn hèn chi anh trông dáng
phong trần !. Dễ cũng đã gần năm năm, gặp lại, tôi thấy anh già hơn xưa nhưng
tâm hồn thì như xưa, cũng mừng.
Anh em ngồi với nhau ở sau góc vườn nhà. Đây là ngôi
nhà mới, không là ngôi nhà cũ ngày nào tôi lên thăm. Ngôi nhà cũ, nằm sâu trong
vùng bắp rẫy, nhường lại cho vợ chồng
cháu Tuấn Kiệt. Ngôi nhà mới nằm bên đường quốc lộ giờ chỉ có mình anh chị với
cháu Kinh Hùng và Kim Phượng. Các khác cháu đã ra riêng. Thùy Anh có chồng con
ngoài Thị xã. Thùy Dung theo chồng lên Thị trấn.
Lần lên thăm này đã có nhiều thay đổi. Vẻ dáng chân
quê đã lần lựa phai nhòe. Điện đường đã có. Phương tiện giao thông cũng bớt
nhiêu khê. Nhà đã có Tivi và đầu máy Samsung đời mới.
Anh với tôi
ngồi uống rượu không ở gian phòng có tủ trà đồ sộ. Ngồi ở góc hiên sau gần
giếng nước, gần vườn rau xanh um, gần chái bếp khói um và thoảng mùi dầu mỡ.
Anh cố tình ngồi đó để nhớ lại ngày nào khi các cháu còn nhỏ, còn quây quần hôm
sớm bên nhau. Không khí ngày xưa sẽ còn, không mất, khi anh bỏ miếng xương
xuống nền thì có bầy gà tranh nhau tìm tới.
Khi anh cầm ly rượu đưa lên thì có
mấy chú (thím) gà ngẩng cao đầu ngóng đợi. Bây giờ thì khác hết rồi. Bầy trẻ
trong nhà ngày nào đã đủ lông đủ cánh bay xa. Bầy gà bây giờ cũng chỉ thưa thớt
vài chú ( thím ) lượn lờ qua lại lượm cơm thừa. Cảnh nhà đìu hiu. Cảnh già buồn
hiu.
Tôi nói em lên đây thăm anh chị và các
cháu rồi em đi, khó ngày gặp lại. Anh cười, ngấn mắt rưng rưng nói, thôi chú đừng nhắc chi, uống với anh ly rượu
này cho vui. Rồi anh kêu chị, để đó đi đừng làm chi nữa, tới ngồi bên anh, bên chú.
Anh chị và tôi ngồi bên nhau, ngày đó, dễ cũng đã hơn bốn-mươi-năm
rồi !.
Đó là hình ảnh cuối khi tôi cùng anh ngồi bên nhau ở
góc bếp sau nhà có giếng nước có vườn rau có tiếng chim kêu giữa tiết trời quê
núi lành lạnh. Anh bỏ vào chén tôi cái đùi gà no trò béo ngậy và chăm chú lựa mấy
vọng rau răm, nhẹ nhàng rất nhẹ nhàng, bỏ cạnh. Rồi anh nâng ly mời chú, mừng
chú. Ly rượu anh uống mừng mà y như là có pha có trộn nỗi buồn. Ly rượu đã run
tay khi để xuống bàn, tôi biết là anh cố đè nén xúc động. Chưa bao giờ tôi uống
ly rượu mà thấy đắng cay như, chiều ngày đó!.
Hình ảnh nữa, còn giữ lại, là khi anh nắm chặt tay tôi
lúc tôi lên xe rời xa thị trấn Krông Ana, thị xã Banmêthuột, tỉnh Đăklăk. Một
buổi chiều khó có buổi chiều nào, buồn hơn !.
Tôi hẹn ra đi mười năm rồi trở lại. Quá mười năm, tôi
chưa dịp trở về !.
Tôi chưa kịp về thăm quê, thăm anh thì anh đã sớm về !.
Vậy là chia tay sao !.
Lần chia tay, ngày nào, chưa là nước mắt vì hẹn nhau
là sẽ tìm lại nhau. Nhưng lần chia tay này thì, buồn quá, nước mắt lại rơi đầy
!. Còn có bao giờ gặp lại nhau!. Còn có bao giờ nắm được tay nhau !.
Mai nữa, em có về, chỉ ôm vòng mộ đất. Đâu còn có ấm
nồng như những năm tháng anh em mình chuyền hơi ấm cho nhau !.
Cố dặn lòng thôi đừng khóc nữa mà sao nước mắt cứ
nhòa. Viết những dòng chữ này ở một miền xa, rất xa, nhưng lòng tôi cứ tưởng
gần, rất gần, bên anh. Vậy là chia tay sao, anh Hàm ?.
Không, anh cho em gởi tình đau ruột thịt....
Phòng Văn, khuya tận tháng Tư, buồn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét