Đi suốt dọc quầy rau
tươi, vẫn chưa tìm được bó rau tía tô nào. Có lẽ hôm nay rau về chưa kịp. Tôi
định chọn bó rau thơm nhưng nghĩ đến món bún bò Huế, chắc chắn là rau tía tô sẽ
thích hợp hơn. Món ăn có được hương vị đậm đà ngoài việc gia giảm nêm nếm gia
vị, còn tùy thuộc vào hương vị của từng loại rau. Ăn Phở, nhất định là phải có
rau húng quế, ngò gai. Ăn bún riêu, không thể nào quên mùi rau kinh giới. Còn
món bún bò Huế, nhất định là phải có mùi hương của tía tô và chút rau răm để
tăng thêm phần hấp dẫn của tô bún đặc
sản miền sông Hương núi Ngự. Chưa nói
tới là phải có vị nồng cay của ớt mới thật là đúng điệu. Ông Bà ta xưa rất cầu
kỳ và có nhiều kinh nghiệm trong việc ăn uống, xem đó như là một nghệ thuật
cao.
Nghệ thuật ăn
uống đã đi vào đại chúng với vô số những câu ca dao truyền khẩu có, thành văn
có. Nhiều câu chúng ta hầu như đã thuộc nằm lòng :
con gà tục tác lá Chanh
con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi
con chó khóc đứng khóc ngồi
Bà ơi đi chợ mua tôi đồng Riềng
thế mới biết
là món ăn cũng phải tùy thuộc vào từng hương vị của mỗi loại rau là vậy.
Tôi cầm bó rau nhìn qua ngắm lại tần ngần. Cuối cùng tôi bỏ lại và quyết
định đến khu chợ Á đông khác. Để tô bún bò Huế mất đi hương
vị đậm đà thì thật là uổng công cho người nấu mà cũng phụ lòng người ăn.
Thôi thì chịu khó mất công một chút để được trọn vẹn cả đôi đường. Vừa dợm
bước, tôi bỗng nghe tiếng chân chạy lao xao và tiếng reo vui :
- Ồ, Ba ơi, có trái thù lù...
Câu nói bất ngờ chợt làm tôi xúc động,
thoáng bâng khuâng nghĩ về một kỷ niệm xưa. Tôi khẽ liếc lên hàng kệ trên cao,
nơi bày bán loại trái Potomalis. Đây là loại trái đặc biệt có lớp vỏ mỏng như
giấy bao bọc phía ngoài. Khi lớp vỏ giấy bên ngoài khô giòn đổi màu vàng úa thì
trái bên trong đã đến độ chín. Vỏ bọc càng khô, trái càng chín nẫu. Trái có vị
ngọt đậm pha lẫn chua. Kết cấu bên trong là nhiều hạt nhỏ như hạt cà chua nhưng
vỏ của trái có độ dày hơn. Loại trái này hầu như được bày bán rất nhiều tại các
chợ Mỹ. Tôi hoàn toàn không biết dùng để nấu món gì nhưng chắc chắn là không
phải để ăn thường như các loại Táo,
Nho...
Mỗi lần thấy nó,
tôi liên tưởng ngay đến trái thù lù ở quê nhà. Nếu gọi là thù lù thì chính trái
Potomalis ở đây mới đúng nghĩa, bởi vì nó to...thù lù. Còn ở quê nhà, trái chỉ
to bằng đầu ngón tay út. Họa hoằn lắm mới có một trái tạm gọi là to, nhưng cũng
chỉ nhỉnh hơn chút mà thôi.
Nhỏ như vậy sao
lại gọi là trái thù lù ?. Hay là vì nó tròn vo, đầy đặn, bóng lưởng lúc đến độ
chín ! Cũng có thể gọi như vậy từ một nghĩa khác. Tiếng gọi nhân gian truyền
khẩu, cũng có lý do và ý nghĩa riêng của nó. Định bụng hôm nào rảnh rỗi. Ghé
qua Thư viện để tìm hiểu về loại trái cây này.
Vừa lúc đó, chú bé đã liến thoắng chạy đến bên cạnh tôi, nhón chân để
nhìn cho rõ mớ trái Potomalis chất đầy trên kệ. Tôi im lặng âm thầm theo dõi.
Đôi mắt chú sáng rực, không phải biểu lộ sự thèm thuồng mà là sự ngạc nhiên
thích thú. Chú rón rén cầm lấy một trái quan sát rất kỹ rồi buộc miệng :
- Chu cha, to quá !
Tôi suýt phì cười. Câu nói đó tôi cũng đã
có lần buộc miệng khi lần đầu tiên nhìn thấy những trái Potomalis, những ngày
chân ướt chân ráo đến định cư tại đây.
Vẻ mặt chú rạng rỡ. Chú nâng niu trái
Potomalis trên tay rồi dáo dác
nhìn quanh, ý chừng tìm kiếm người Cha, để chia xẻ niềm vui bất chợt. Vừa lúc
đó, có tiếng chân phía sau tôi và tiếng nói, giọng miền Trung :
- Con đang tìm chi đó, Cu Tí ?
Chú bé có tên là cu Tí, chắc chắn chỉ
là tên gọi thường ngày trong nhà, vừa thấy Cha, chú mừng rỡ :
- Trái thù lù nè Ba !
Người
Cha bước tới, nhìn trái Potomalis trong lòng bàn tay nhỏ nhắn của con. Ông có
vẻ ngạc nhiên :
- Phải không đó ?. Sao mà hắn to dữ ri ?
Cu Tí nhà ta làm ra vẻ sành sỏi :
- Phải
mà, Ba. Trái thù lù đó. Bộ Ba không thấy ở Mỹ cái chi cũng to hết. Người Mỹ,
hắn cũng to gấp mấy người mình..
Người Cha vẫn chưa hết ngạc nhiên :
- Đâu?.Con đưa Ba coi thử.
Ông ta
vội vàng cầm trái Potomalis từ tay thằng Tí, mân mê lớp vỏ bên ngoài rồi ngắm
nhìn kỹ cái trái vàng bóng bên trong. Cuối cùng ông gật gù :
- Đúng là trái thù lù rồi. Mà sao hắn to dữ hè ?
Cu Tí nhìn ông, cười sảng khoái :
- Ở Mỹ mà Ba.
Ông ta không nói gì, bỏ trái lại chỗ cũ. Thằng Cu Tí thấy vậy, vội vàng
nói :
- Lát nữa Ba mua cho con mấy trái ăn thử, nghe Ba !
Tôi thấy ông ta ngần ngừ một thoáng rồi mới nói với con :
- Thôi,
để Ba mua táo với nho con ăn cho “ đã”. Mấy loại trái ni bên nhà có khi mô mà
con được rớ tới. Ăn trái thù lù ngon lành chi !. Ở bên nhà con ăn hoài rồi...
Tôi thấy mặt Cu Tí phụng phịu, nó nắm lấy tay áo của Cha giật nhẹ, mặt
ngước nhìn lên, nài nỉ :
- Đi Ba ! Mua cho con đi. Con thèm lắm !
Trong
ánh nhìn thơ trẻ đó, tôi hình như thấy một nét buồn xa vắng. Không phải là nét
buồn vì không thỏa mãn được lòng mong muốn. Nó còn hơn thế nữa. Vời vợi đến nao
lòng. Tôi chỉ cảm nhận mà không diễn tả được.
Người
Cha vẫn chưa thấy trả lời. Cu Tí lại nài nỉ :
- Mấy
trái thù lù mọc trên mộ Mạ con, ăn ngọt lắm. Con muốn ăn lại trái thù lù, con
nhớ ...
Tự nhiên tôi sững người. “ Mấy trái thù lù mọc trên mộ Mạ con, ăn
ngọt lắm”. Những tiếng nói đó như xoáy vào tim tôi, đau nhói. Câu nói này
tôi cũng đã có lần nói với anh tôi , từ gần bốn mươi năm trước, khi hai anh em
trên đường về xóm nhỏ “ Mấy trái thù lù mọc trên mộ Mạ, ăn ngọt thiệt “.
Ngày đó, tôi cũng trạc tuổi như Cu Tí
bây giờ..
Tôi thẩn thờ bỏ bó rau xuống và quày quả ra xe. Hình ảnh và câu nói
trùng hợp đã làm tôi xúc động đến nghẹn ngào. Tôi muốn ngồi yên lặng một mình
để dịu bớt nỗi buồn chợt đến từ một câu nói trùng hợp vô tình đã khơi dậy trong
tôi những kỷ niệm buồn về những ngày thơ ấu. Những trái thù lù vàng bóng nằm
bên trong lớp vỏ lụa mỏng khô đã cho tôi niềm vui thơ dại.
Không biết tự lúc nào, cây thù lù đã mọc bên cạnh mộ Mẹ tôi. Lứa
trái bói đầu tiên tôi được ăn là những ngày tôi còn học ở Trường tiểu học Đa
Nghĩa rồi chuyển lên trường Bạch Đằng. Ngay cả khi tôi vào trung học Trần Hưng
Đạo, những trái thù lù vàng óng vẫn là niềm vui khi tôi ghé thăm mộ Mẹ. Sau
này, khi đã vào đời , những trái thù lù vẫn mãi là niềm vui đối với tôi. Tuy ở
vào mỗi thời điểm, niềm vui có những
trạng thái khác, nhưng vẫn là niềm vui mà tôi không thể nào quên được. Nó gắn
liền vào cuộc đời tôi về hình ảnh người Mẹ đã bỏ tôi đi khi tôi còn quá nhỏ.
Nhưng
có lẽ, kỷ niệm về trái thù lù mà tôi nhớ nhất là những tháng, năm trải dài tuổi
thơ của tôi trong cái xóm đình Đa Cát, một khu xóm nghèo cùng cực. Người lớn
thì lam lũ suốt ngày lo thắt ruột vì miếng ăn. Trẻ con thì đầu trần chân đất
quanh năm suốt tháng. Chính cái vị ngọt chua đằm thắm của từng trái thù lù chín
mọng đã là niềm vui lớn của tôi. Đúng, phải nói là một niềm vui lớn. Bởi vì
tuổi thơ của tôi là những chuỗi ngày dài ăn chưa đủ no, thèm mà không có. Cảnh
đói nghèo mà cái xóm đình Đa Cát của tôi phải triền miên chịu đựng đã là nguyên
do để cho những người trong xóm phải tha phương cầu thực. Người đi xa khuất nẻo
thì không biết thế nào nhưng những người còn lại thì quanh năm suốt tháng vẫn cứ ôm cảnh đói nghèo.
Và thèm, thèm đủ thứ.
Vì
thế cho nên khi phát hiện cây thù lù mọc gần mộ Mẹ tôi có những trái mọng vàng
ngọt chua đến lịm cả lưỡi thì làm sao tôi không vui cho được ! Cứ tưởng tượng
khi ngậm trái thù mát rượi vào miệng rồi cắn nhẹ. Cảm giác đầu tiên là chất
nước ngọt ngào ứa ra rồi sau đó là những hạt nhỏ khi nhai có vị chua làm tê đầu
lưỡi. Vị ngọt và chua hòa quyện lẫn nhau tạo nên một cảm giác thật khó mà diễn
tả. Nó làm dịu lại những thèm khát lâu ngày. Mỗi lần lên thăm mộ Mẹ trúng mùa
trĩu quả, tôi thật không thấy niềm vui sướng nào bằng. Trong trí tưởng tượng
của tôi ngày đó, tôi cứ nghĩ là Mẹ đã trồng cây thù lù này dành cho anh em tôi.
Bởi vì, trải dài qua hai ngọn đồi rộng lớn của khu Mả Thánh chỉ toàn là loại cỏ
tranh và cây ngũ sắc. Thưa thớt, có vài lùm bụi sim rừng và những cụm bông vạn
thọ, loại bông vạn thọ núi hoa nhỏ có màu vàng pha đỏ sặc sỡ và lá nhỏ màu xanh
đen đến mùa nắng trở màu vàng cháy..
Vậy mà, bên cạnh mộ Mẹ tôi lại có cây thù lù quanh năm tranh sống với loài
cỏ tranh, một loại cỏ không
chịu chung chạ với bất cứ loại cây nhỏ nào. Như một phép lạ,
cây thù lù vẫn cứ vươn mình ngạo nghễ và cứ vẫn đều đặn ra hoa đậu quả.
Teo tóp khô cằn trong mùa Đông nghiệt
ngã rồi lại đâm chồi nẩy lộc vào độ Xuân qua để kịp cho những
quả mọng vàng bóng lưởng vào mùa Hè.
Đó cũng
là lý do tôi thường lên thăm mộ Mẹ vào mùa Hè. Khu nghĩa trang vắng lặng vàng
hoe dưới ánh nắng. Những lùm cỏ tranh đã đến kỳ vàng cháy, ngả nghiêng xơ xác.
Cây thù lù bên cạnh mộ Mẹ tôi vẫn giữ nét phong độ của những ngày Xuân. Lá tuy
thưa thớt ngả vàng nhưng thân mộc vẫn sung mãn vươn lên oằn sai những quả. Lớp
thì đang vàng chín trên cây, lớp thì chín muồi rụng xuống. Mỗi lần lên thăm mộ,
hai anh em tôi tranh nhau lượm quả chín. Anh tôi thì lúc nào cũng có vẻ chậm
chạp ( sau nay tôi mới nghĩ ra là anh có ý nhường nhịn cho tôi ) nên phần anh
giành được rất ít. Lượm trái rụng xong lại giành nhau hái những trái chín vàng
trên cây, Sau đó, hai anh em nằm ngả ra đám cỏ tranh khô, vàng cháy nheo mắt
nhìn những đám mây trời và bắt đầu nhâm nhi từng trái thù lù. Mây trời khi tụ
khi tan, biến dạng thành những hình thù quái dị theo trí tưởng tượng của chúng
tôi.
Khi tôi
vào Trung học thì anh tôi đã vào đời rất sớm và không còn ở bên cạnh . Cây thù
lù đã trở thành vật sở hữu riêng tôi.Những lần lên thăm mộ vào mùa Hè cây oằn
sai những trái chín nhưng sao lòng tôi không còn háo hức như ngày nào. Vị ngọt
ngào chua thanh vẫn tê lịm đầu lưỡi làm dịu những cơn thèm khát nhưng tôi vẫn
cảm thấy buồn, một nỗi buồn không diễn tả được. Chỉ cảm nhận như có một sự
trống vắng, hụt hẫng. Thường thì tôi ngủ thiếp đi cho đến lúc cảm thấy lành
lạnh mới chợt giật mình thức giấc. Và buồn bã ra về dưới bầu trời bắt đầu
thỏang mù hơi sương…
Sau này, khi khôn lớn vào đời, hình ảnh cây
thù lù và những trái chín vàng bóng lưởng vẫn theo tôi mãi không rời. Thời gian
này tôi không còn có dịp tìm lại được vị ngọt ngào chua thanh của trái đang vào
mùa chín rộ.Cuộc sống rày đây mai đó đã đẩy xa tôi những cảm giác ngày xưa và
lại càng không có dịp tìm
lại hương vị của những giờ phút nằm ngắm mây trời, nhâm nhi từng
trái ngọt. Thi thoảng, có về thăm nhưng vào những dịp trái mùa. Theo thời gian,
thân gốc tuy đã già nua cằn cỗi nhưng vẫn tranh sống với loài cỏ tranh, vẫn
xanh tốt xum xuê.
Những
ngày xa quê, tôi vẫn còn giữ những kỷ
niệm thời thơ ấu với vị ngọt ngào chua thanh của trái thù lù chín tới. Mãi mãi
trong đời, tôi chẳng thể nào quên được…
Khi anh viết câu chuyện này chắc chắn là em đã
trưởng thành. Thành phố nhỏ bé này ngó vậy mà rộng lớn bởi vì anh có ý tìm em
mà không hề gặp. Có thể là từ sau lần giáp mặt lần đầu tiên trong khu chợ Á Đông,
gia đình em lại dời qua nơi khác. Cũng có thể duyên may chỉ đến với anh em mình
một lần duy nhất đó. Nhưng dầu thế nào đi chăng nữa, anh cũng mong rằng em có
dịp đọc được câu chuyện này để chia sẻ cùng anh một cảnh đời trùng hợp.
Được sống lại những cảm giác bồi hồi, dù chỉ là giây phút, về một kỷ
niệm xưa cũng là niềm hạnh phúc trong đời.
Anh gởi
đến em, Cu Tí, niềm hạnh phúc nhỏ nhoi này để nhớ về một tình cờ giáp mặt
Hiên Trăng Brookhurst 09/1998
(trích Truyện ngắn Trần Huy
Sao, 2013, Hiên Trăng)