gởi người cùng xóm đình Đa Cát ( Cây số 4 Đàlạt )
Đố ai mà
không nhớ có một thời mình đã sống, nơi nào đó, trong đời. Một nơi chốn rất
riêng tư và rất là thân thuộc. Quê hương
đó, phải chăng?. Trong quê hương lớn rộng còn có thầm lén một quê hương nhỏ,
không kém phần ray rức bồi hồi. Đi xa thì nhớ quá chừng. Về lại, thì buồn thêm
nặng. Bởi lẽ, có gì mà không thay đổi theo thời gian. Nét đổi thay đôi lúc rất
tàn nhẫn và, rất là ngỡ ngàng. Ôm cả một quê hương để nhớ, chi bằng nhớ rất nhỏ
nhoi thôi, một nơi chốn mình đã gắn bó rất đậm đà thân thuộc.
Trong
quê-hương-lớn-rộng đời tôi, tôi nhớ,
một-quê-nhỏ của tôi : Xóm đình Đa Cát !.
Gọi là
đa cát, chắc nghĩ là Xóm nhỏ của tôi có nhiều cát. Không, không hề có cát. Có
đất cằn và cỏ Cú thì nhiều. Hay là cát đây có nghĩa là điều tốt. Đa Cát : nhiều
điều tốt. Chắc cũng không đâu, vì chẳng có gì gọi là tốt cả!. Đau khổ và đói
nghèo cùng cực, thì làm sao mà tốt cho được.
Nhưng thôi, cứ nghĩ là vậy đi, ở một nghĩa nào
cũng được, nhưng cứ là Đa Cát. Cứ là cái Xóm nghèo cùng cực, cơm bỏ vào miệng
chưa đầy, nhai hoài không muốn nuốt. Sợ
nuốt đi rồi còn có miếng nào thêm! Đó
là những năm,tháng khi tôi còn bé nhỏ. Nhìn Trăng đêm Rằm mà sao
thấy to lớn, cao xa. Ngó mưa trời mà cứ phập phồng lo sợ. Những mái nhà tranh
vách ván đơn sơ làm sao chịu nổi phũ phàng, vùi dập. Vậy mà, tuổi thơ cứ bình
bồng trôi đi trong nỗi thăng trầm thôn xóm nhỏ. Có Ông, Bà, Chú, Bác, Anh em,
bạn bè, bà con làng xóm. Có chuyện rất
vui và, có chuyện rất buồn. Có nét đẹp
thanh tao ngọt ngào như vị ngọt của những trái ổi nồng nàn
hương thơm nhà Bác Nghi. Có vị đắng của trái đào lông xanh nhà ông Thưởng. Có
vị ngọt chua ê răng, ứa nước miếng của những trái mận vàng lườm nhà ôn Cai
Hoành. Có vị chát đầm thấm của những trái Vả sau vườn Chùa Linh Quang. Có bâng
khuâng thương nhớ của những đêm bạn bè cùng trang lứa rượt bắt cứu tù, đạp lon
hay trò ma-da-trốn-tìm dưới ánh trăng sân Đình xưa cũ...
Bây
giờ, lớp đàn anh đàn chị đã đi xa, đã nằm lại. Lớp tuổi tôi cũng nằm lại, cũng
đi xa...Nhưng cái xóm đình Đa Cát thì vẫn còn gần đó, xa đó lung linh mờ ảo
trong hoài niệm. Mà khi nhắc lại, chắc cũng chạnh lòng xao xuyến và cả ngẩn
ngơ. Hỏi ai mà không nhớ quê hương cho được. Quê hương theo dọc cả một đời
người. Kỷ niệm cũng ôm hoài một nỗi nhớ.
Đó, nói đâu xa.
Năm trước, gặp anh Đông trên đất quê người. Nhắc lại xóm đình Đa Cát, anh cám
cảnh bùi ngùi. Đi xa lâu rồi, anh thèm nghe những gợi nhắc quê hương. Nghe hoài
không thấy chán. Hai đứa thức thâu đêm mà nói hoài không hết chuyện. Cái xóm
đình thì nhỏ mà sao chuyện cứ dài, dài mãi, nhắc nhớ hoài không thôi!. Kể chưa
hết chuyện ông Năm Le, miệng ăn trầu đỏ chót, gặp con nít ông le lưỡi đỏ lòm,
cho vui thôi, nhưng làm tụi mình sợ xanh
cả mặt, són đái lúc nào không hay ( mà anh cũng són đó nghe, chớ đâu phải riêng
mình tôi). Anh cười, có vẻ ngượng. Uống đẫy đà một hơi beer tâm đắc rồi bắt qua
chuyện trộm ổi nhà Bác Nghi, bị bắt trói vô cây ổi chờ Cha, Mẹ tới lãnh, để bị
mắng vốn đủ điều. Bữa đó về, bị cắt phần cơm, tôi đứng trong góc nhà vòng tay chịu
phạt rồi ngủ
quên lúc nào không
biết nữa! Còn anh,chắc cũng bị
mấy roi xoắn đít, nổi lằn. Còn khoe nhau
những bữa lòn hàng rào nhà
bác Ba Cận trộm mận "bạch tạp", giống mận độc đáo vàng
vỏ đỏ lòng cắn tê đầu lưỡi mát chân răng. Bữa đó, anh bị con chó xù nhà bác
"tợp" cho một phát. Về,
mông đít bôi mù-hóng-dầu-mè đen ngòm, phát khiếp. Thuốc chữa dân gian vậy mà
cũng tốt, có điên dại chi đâu!. Nghĩ mà thương cái Xóm nhỏ của tụi mình. Đau
quặn bụng thì nhai lá ổi. Nhức đầu xổ mũi có lá bưởi lá chanh lá sả trong vườn (
nhớ tới nhà ôn Cai Hoành nài xin cho được nhúm lá thù-đủ-tía). Làm một nồi
xông, sớm mai dậy,chạy chơi cùng làng cuối xóm. Còn ho hen hả?. Khó gì, cứ tới
nhà thím Ba Hồng xin ít lá Tần về giả nhuyễn nhừ, thêm chút muối, cũng là
"thần phương".
Tụi mình,
hồi đó, tóc có nhuộm đâu mà vàng hoe, khét nắng. Nòi giống da vàng mà da cứ xảm
như chì. Gan bàn chân thì dày như da trâu. Mặt có vằn có vện, lang beng lẫn lác
đồng tiền. Thiệt chẳng giống ai. Vậy mà, cũng không ai giống mình. Điệu nghệ
bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông...
Mùa Xuân thì đi săn lùng ổ chim se sẻ ở mái
Đình hay bắt bướm hái hoa giả làm trò chơi đám cưới với tụi con Lý, con Mai.
Vui hơn hết thảy là những ngày Hội Xuân. Được ăn uống no nê lại tha hồ chạy
nhảy chẳng ai trách cứ phiền hà. Bởi vì mấy cụ bận khề khà mâm trên chiếu dưới,
mấy bà thì bận tíu tít phục vụ hỏa-đầu-quân, thở chẳng ra hơi...
Mùa Hạ thì đi bắt dế, thả diều trên đồi Trọc.
Đánh đáo, thảy vụ, chơi ô quan trong sân Đình. Vui nhất là đêm đêm trăng sáng
chơi rượt bắt cứu tù, đạp lon và đôi khi ngồi tụm nhau nói chuyện dóc rồi cười
nghiêng ngữa. Trăng soi vằng vặc khoảnh sân Đình, trẻ con, người lớn tụ nhau ồn
ào như một xóm chợ nhỏ. Lâu lâu, lại có gánh hát-bộ từ một phương trời xa xăm
nào đó, ghé về dựng rạp ở sân Đình. Đó là những đêm đầy âm sắc rộn ràngTưởng
như đâu đây còn vang tiếng cầm-chầu điệu nghệ của Ôn Cai Hoành, Ôn Lào, bác Ba
Cận...Khi thì rời rạc như trống
cầm canh, khi thì thúc giục hả hê làm nôn nả cả lòng người...Kịp đến khi
đoàn hát-bộ chuẩn bị lên đường
tiếp nối quãng đời phiêu giạt, thì đã biết mùa Thu sắp đến. Đó là lúc buồn vui
bịn rịn chia tay, không ngăn nổi những
tâm tình trai gái...lưu luyến lúc phân
kỳ!. Ôi! cái cảnh kẻ ở người đi sao mà buồn sầu lắm vậy!. Đã có bao nhiêu chàng
trai, bao nhiêu cô gái dứt lòng xa lìa xóm nhỏ mà ra đi dọc theo con đường gió
bụi, theo giấc mơ của ánh đèn sân khấu và, theo tiếng gọi của tình yêu !..
Mùa Thu
thì co cụm lại, vui đùa trong góc Đình khuất gió. Và mưa, ôi chao, mưa chi vùi
dập nhẫn tâm. Cây trút lá, ngã nghiêng, xô dập tiêu điều. Gió rít từng cơn nghe
nhót xói cả tâm can. Mưa lê thê, dai dẳng suốt ngày đêm. Trò chơi là những con
thuyền giấy mỏng manh thả trôi theo dòng nước, chở những ước mơ bé nhỏ trôi
giạt tận những phương trời xa tít. Chỉ còn lại cái đói, cái lạnh lùng bơ vơ trơ
trọi của xóm đình nhỏ nhoi dưới bao la đất trời một màu mưa trắng mù, sầu
thảm....
Mùa Đông
thì quá đỗi buồn. Chẳng có trò chơi nào
chịu nổi với tiết trời lạnh thấu xương. Biếng lười gặp nhau. Đi đâu cũng co ro
cúm rúm. Xóm nghèo quá, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc. Da dẻ lúc nào cũng
ửng đỏ, rát không chịu nổi. Có nhà, về đêm, con cái đắp bao-tời mấy lớp. Cũng
có nhà, anh em rúc nhau trong ổ rơm lúc nhúc, ôm nhau mà run lạnh nhớ nắng
Xuân. Sân Đình, những ngày Đông càng hiu hắt buồn. Đêm đêm, mọi nhà xúm nhau
bên bếp lửa ngo, nghe kể chuyện ma quái mà rùng mình, cố xích lại gần nhau hơn
nữa. Tiếng mõ rời rạc của chú A khi to khi nhỏ giữa đêm trường, trong cơn gió
chướng, nghe buồn lay. Thỉnh thoảng, có tiếng chó tru đêm, não nuột.
Sợ quá, là mùa Đông!. Đói,
lạnh và, nhớ không khí bạn bè.
Mùa
Đông, hình như là mùa để trỗ lớn và chín chắn hơn. Cũng đúng thôi, vì đó là mùa
của cuối năm, luôn là cái móc thời gian để dợm mình lớn thêm một tuổi. Rồi,
cũng lấy đi những người già không sức chịu cái nghiệt ngã của tháng ngày đông
giá. Biết là tre-tàn-măng-mọc, nhưng mà sao buồn quá!
Ôi !.
Những mùa Đông của tháng ngày thơ ấu ấy, đã lấy đi rất nhiều những khuôn mặt mà tôi thương, tôi kính. Có Ông
tôi, có cả Bà tôi trong đó nữa! Gần hơn, có chú Quý nhà ở cạnh bà Hoàng di cư,
chú Thứ xe ngựa ở cạnh hố rác Bà Sơ, chú Mười Mươi nhà kế bên chú Tín
cây-dầu-gió, ông Ba Guốc và Chú Đính hai
nhà kế cận nhau, dượng Tuần ở sau
nhà tôi, bà Năm Thiên nhà có cây ổi sẻ
và cái lu nước mưa dành uống đủ bốn mùa, bà Cửu Om nhà gần bác Ba Cận, thím
Biền cháu bà Côn, Ôn Cai Tư hương sư đã từng khai tâm cho lớp đàn anh của tôi
ngày ấy, ôn mụ Lào nhà sau chùa Linh Quang cạnh cái chợ Chiều của Xóm, ôn Cai
Hoành nhà sát cạnh khu Bà Sơ Vincent sau lưng nhà chú Đán, chú Duy thợ
mộc...Chà, nhiều quá cho một mùa Đông và nhiều mùa Đông đã đi qua trong đời.
Quê hương bé nhỏ của tôi ơi! . Sao mà đau thương lắm vậy?. Còn đó thì thôi, thì
chỉ là thoáng nhớ ngậm ngùi. Nhưng nay đã đi xa rồi, tất cả bỗng trở thành một
cái gì đó thiêng liêng quá, trong tôi, mỗi lần nhắc nhớ...
Và cả anh nữa, anh Đông!
Đêm đó, trên đất lạ xa quê, hai tâm hồn chụm
lại đốt lên chút lửa hoài niệm mà rũ rượi buồn. Khoan! Khoan nhắc đã anh. Anh
đi lâu quá rồi, anh chắc không còn nhớ . Tôi, thì tôi nhớ. Nhớ như điên, như
khùng. Cái xóm đình Đa Cát ấy!. Nó thật nhỏ nhoi và lắng chìm trong muôn vàn
xóm đình trong lòng quê hương mình. Nhưng nó lớn rộng quá, khơi dậy quá trong
lòng tôi, trong lòng anh và cả những người đã từng sống, từng ôm đồm quá nhiều
kỷ niệm. Dù nay, đã ra đi hay còn lại, vẫn hoài nhớ mãi chẳng thể nào quên. Dù
nó chỉ là một xóm đình nhỏ nhoi, nhưng chính là cái gốc tình tự của quê hương
là vậy!
Nay thì anh đã đi xa rồi, thật xa. Có thể, anh
đã trở về với xóm đình Đa Cát nghèo khổ của tụi mình, thuở nào. Trên bước đường
ly xứ, tôi rất mừng được gặp lại anh, nhưng
tiếc thay tháng ngày ngắn
quá, anh lại bỏ ra đi. Nôn nóng chi mà đi sớm vậy?. Tụi mình chưa nhắc
hết chuyện năm, tháng đổi thay của xóm đình ngày thơ ấu. Chưa nhắc tới cuộc
thăng trầm nghiệt ngã đã làm vỡ tan bao kỷ niệm ngày xưa...
Ngày xưa...Xóm
đình xưa...Nghe sao mà não nuột...
Ngày xưa, thì
mình vẫn còn nhớ và nhắc đó. Xóm đình xưa!
Thì xóm vẫn còn
đó, nhưng đình thì đã không còn dấu tích. Chỉ còn lại một khám thờ nhoi, hiu
quạnh bên đường. Đâu còn nữa anh, những ngày chiêng
trống vang lừng, cờ phướng phất phới, bô lão kỳ hương khăn đóng áo dài
trang trọng, hàng ngũ lễ sinh áo mũ chỉnh tề sinh động đứng, quỳ theo
nhịp xướng "hưng,bái". Phụ nữ mọi nhà được "sức" tới để phục dịch nấu nướng trong những ngày tế Xuân, Thu
định kỳ. Đâu còn cái cảnh tụi mình, ngày đó, chạy đùa nô giỡn, ăn uống thả dàn
trong suốt mấy ngày xóm đình vô Hội. Sao mà vui. Sao mà đầm ấm tình nghĩa xóm
làng đến vậy!
Bây giờ, anh đã nằm xuống, thân xác đã hóa
thành tro bụi, chờ dịp trở về quê cha đất tổ. Chuyện đêm nào, chưa nói hết, anh
đã bỏ đi xa. Anh chưa thỏa lòng là vậy. Một dịp nào, tôi đưa anh về quê hương,
đưa anh về xóm đình Đa Cát của tụi mình. Để anh, nằm yên đó, ngắm nhìn ngày
tháng xưa - mãi nhớ, mãi thương cho hả lòng hả dạ lòng người, đã một thời xa
quê hương yêu dấu...
Hiên Trăng 20 năm ly xứ…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét