BUỒN MUÔN THUỞ
Thân gởi các bạn cũ Trường Trung học Ba mê Thuột
đặc biệt đến các cây bút thơ văn tuổi học trò
Thi Văn Đoàn SAO DỊ HÌNH Ban mê thuột
Tôi có
về Ban Mê Thuột vào năm 1972, mùa Hè đỏ lửa. Bụi mù che Ban Mê Thuột.
Những con đường vẫn còn vẻ dáng của ngày nào, nhưng bụi mù đã che dấu (hay phủ
lấp) những khuôn mặt bạn bè ngày xưa. Thằng nào cũng bận bịu chuyện chiến
trường. Mấy cô bạn thì bận bịu chuyện chồng con. Tôi trở thành kẻ cô đơn giữa
nơi chốn một thời đông đủ bạn bè trang lứa. Một thời chỉ cần “ới” nhau
một tiếng là đã đông đủ bạn bè họp mặt. Nay thì :” Ở giữa phố đông. Chỉ thấy
bụi mù che Banmêthuột “.
Về thăm lần này, tôi dẫn theo người bạn đời. Cô nữ sinh trường Trung học
Bùi Thị Xuân Đàlạt. Trước là ra mắt tông chi họ hàng. Sau là “khoe” với bạn bè
rằng tôi đã thật sự là người lớn. Chú học trò mặt búng ra sữa ngày nào, bây giờ
đã trổ mã. Con chim non của tổ ấm trường xưa đã đủ lông đủ cánh vượt bay cao,
bay xa ra vùng trời bao la mới lạ.
Vậy mà, nơi chốn đông vui của một thời xa xưa đó, đã không còn ai để
gặp. Có đến nhà Phùng Ngọc Long ở cuối con dốc suối Đốc Học. Phùng Ngọc Long
chỉ học đến lớp Đệ Tam là bỏ trường, bỏ bè bạn đăng vào binh chủng Hải Quân. Nó
là thằng ra đi sớm nhất trong đám bạn bè. Ra đi từ cả hai nghĩa.
Nhìn tấm ảnh thờ ám khói theo thời gian, tôi nói với Nhà tôi :
- Là Hoàng Chúc Linh đó. Một vì sao dị hình trong
Thi văn đoàn Sao Dị Hình Banmêthuột ngày xưa. Anh ấy thường làm thơ, những vần
thơ tình tới-nơi-tới-chốn. Vậy mà Nàng đọc không thèm cảm động. Để rồi, cuối
cùng, anh ấy ra đi...
Phùng Ngọc Long lớn hơn tôi hai tuổi. Gọi là anh,
chắc là “nó” không phản đối.
Đến nhà Đoàn văn Trường nằm đầu đường Hoàng Diệu –
Phan Chu Trinh.
Nhà đã thay đổi chủ. Chiếc cổng sắt nhỏ màu xanh có
giàn hoa Lý ngày xưa vẫn còn nhưng đã thay màu sơn khác. Giàn hoa Lý cũng không
còn. Đoàn văn Trường, đầu năm Đệ Nhị đã sung quân vào Biệt Kích rồi cũng ra đi
rất sớm. Chỉ sau Phùng Ngọc Long chừng hai năm. Tôi lại nói với Nhà tôi :
- Là Hoàng Hải Sơn đó. Cũng là một vì sao dị hình
nữa. Anh ấy cũng làm thơ tình, thơ năm chữ thôi. Chắc là thơ năm chữ chưa đủ ý
diễn đạt mối tình kéo dài mấy năm Trung học nên, cuối cùng, cũng phải ngậm
ngùi...
Đoàn văn Trường lớn hơn tôi một
tuồi. Dù chỉ một tuổi thôi nhưng trước mặt Nhà tôi, khó xưng hô kiểu mày tao
chi tớ như ngày xưa. Nhưng giả thử nếu gặp nó (chỉ giả thử thôi, chứ làm sao mà
còn gặp lại nhau được nữa!) tôi vẫn cứ gọi mày tao với nó, chẳng phải ngại
ngùng.
Nắng và Bụi. Và chỉ có vậy thôi cho
một lần về. Nhà tôi không thể ngờ rằng tôi đã có một khoảng thời gian hoa mộng
khá dài ở một nơi mịt mù bụi đỏ như thế này. Nhà hỏi :
- Có buồn không ? Sao gọi là Buồn
Muôn Thuở ?. Gọi là bụi mù trời, ý nghĩa nhiều hơn.
Tôi khó trả lời câu hỏi này. Bụi mù
trời thì đúng. Nhưng mà buồn muôn thuở thì...Cũng đã có một khoảng thời gian
vui lắm mà ! Đó là những năm, tháng bạn bè đông đủ quây quần dưới mái trường
Trung học. Những năm, tháng đó đâu có buồn ! Rõ ràng là bạn bè nếu gặp lại
nhau, nhắc nhớ những kỷ niệm học trò xưa chắc chắn sẽ có những trận cười
nghiêng ngửa. Đã gọi là cười nghiêng ngửa thì có gì mà buồn ?
Vậy mà, vẫn cứ buồn ! Bởi vì, chính những ràng buộc, tự nó, đã đan kết
một nỗi buồn. Buồn muôn thuở. Buồn một thuở. Chắc chắn là chỉ có buồn
mà thôi. Lần trở về thăm đó, chẳng thấy bóng dáng những khuôn mặt ngày xưa.
Tự trong lòng đã dấy lên một nỗi buồn. Tôi không thể lý giải dài dòng về điều
mình suy nghĩ. Tôi chỉ muốn đưa Nhà tôi đi thăm những nơi chốn kỷ niệm xưa...
Đầu con dốc, nhìn qua bên kia là Khu
Công Chánh. Nhìn bên trái là Trường Sư phạm Cao nguyên. Rẽ phải, đi xuống mộ
khúc ngắn đã là cổng trường Trung học.
Mùa Hè, nên sân chơi, trường lớp vắng lặng. Hàng Phượng đã rộ đỏ sân trường.
Tôi nói với Nhà tôi :
- Đây, mái trường xưa của anh là
đây. Căn phòng đầu của dãy nhà bên kia, gần nhà ông Cai trường, là lớp học mà
anh đã ngồi mấy năm. Về sau, lớp chuyển qua dãy nhà bên này, ở phòng thứ ba, có
cửa sổ nhìn ra đoạn đường đá..,Con đường đá đó, đi thẳng vào Thác Nhà Đèn.
Đứng ngắm nghía một đỗi lâu. Tôi cảm
thấy buồn. Buồn lắm ! Nhà tôi khẽ nắm lấy tay tôi. Chắc là đã “thấy” được nỗi
buồn của tôi. Nỗi buồn-một-thuở.
Nén tiếng thở dài rất nhẹ, tôi rẽ
trái ra Quốc lộ, rồi lại rẽ trái nữa để về lại thị xã. Bên lề đường là Phi
trường L.19. Dọc theo bờ rào là những lùm bụi cây mắc cở phủ bụi đỏ ngầu. Đến
đường Phan Chu Trinh là bùng binh ngã sáu. Khu Nhà thờ chính rực nắng. Tôi cho
xe dọc xuống đường Ama Trang Long rồi rẽ phải ở góc đường Y Yút. Đi thẳng một
đoạn khá dài gần đến ngã tư Quang Trung-Y Yút, tôi ngừng lại trước xe bán bánh
mì khuất lấp phía bên phải. Ông già Tàu vẫn còn đó. Chiếc xe bánh mì vẫn cũ kỹ
như xưa, mặt kính vàng đục cáu bẩn những vết dầu mỡ lâu ngày. Một dãy thịt xa
xíu treo dài phía trong, óng màu hấp dẫn. Những ổ bánh mì được sắp lớp bên cạnh
cái thớt tròn, dày và con dao to bản vẫn như ngày nào. Tôi nói với Nhà tôi :
- Đây, người bạn già của tụi anh
đây. Xe bánh mì xa xíu. Hồi đó, nếu một ngày mà không có miếng bánh mì kẹp mấy
lát xa xíu mỏng dính quẹt đầy tương đen bên trong là thấy như thiếu thốn lớn
lao.
- Thêm một chút tương ớt đỏ. Và, ăn
dè chừng sợ mau hết...
Nghe Nhà tôi nói, tôi bật cười sảng
khoái :
- Không sai. Vậy thì đừng bỏ mất cơ
hội, hãy vào.
Tôi dựng xe bên lề. Ông già Tàu đón
khách với vẻ dửng dưng xa lạ. Tự nhiên tôi thấy có chút xót xa, buồn lắng.. Rõ
ràng ông không còn nhận ra tôi. Chẳng trách gì đâu ! Thời gian đã qua lâu quá
rồi mà. Tại vì tôi quá háo hức những kỷ niệm ngày xưa đó thôi.
Tôi mua chỉ nửa ổ bánh mì xa xíu
trong ánh nhìn ngạc nhiên thầm hỏi của Nhà tôi. Ông Tàu già lẳng lặng lựa lấy
nửa ổ bánh mì. Bánh mì của ông lúc nào
cũng được giữ nóng, giòn tang. Tôi háo hức chăm chú nhìn những động tác của
ông. Ngày xưa, mỗi lần mua bánh, tôi cũng nhìn chăm chú như thế. Nhìn để chờ
đợi một ân huệ, một biệt đãi vì có thể ông sẽ phóng tay cho thêm một vài lát xá
xíu hay quét dày hơn lớp tương đen, tương đỏ. Giờ đây, tôi cũng nhìn chăm chú
nhưng chỉ để háo hức tìm lại những hình ảnh quen thuộc ngày xưa. Đôi tay ông
chuẩn xác, thành thạo mọi động tác. Chỉ cần đưa một đường dao nhẹ, nửa ô bánh
đã được phanh đôi. Buông con dao, ông
chụp ngay cái muỗng cắm sẵn trong lọ tương đen, ngoáy nhẹ một cái rồi lẹ
làng quệt vào lòng ổ bánh, phía bên trái. Đường muỗng lả lướt, chính xác như
đường cọ dao sơn dầu của họa sĩ. Một vệt
tương đen, tương đỏ trộn lẫn, trải dài đều đặn theo chiều dọc của nửa ổ bánh
mì.
Khi trả tiền và ngỏ ý với ông là
không cần phải thối lại tiền lẻ. Ông cười, nhìn tôi và gật đầu nhiều lần. Nụ
cười của ông đã già nua quá, không kéo lại cái nét tươi vui như ngày nào. Tự
nhiên, tôi cảm thấy buồn. Buồn nghẹn !
Khi ra xe, tôi nói với Nhà tôi :
- Anh cố tình mua một nửa ổ. Một nửa này để thưởng thức hương hoa. Một
nửa kia để nhịn thèm. Ngày mai, thể nào em cũng tìm tới.
Tôi cho xe chạy thẳng qua nhà hàng Đô Thành, qua
ngã tư Y Yút – Phan Bội Châu. Đến ngã tư
Y Yút – Hoàng Diệu, nghe nhà tôi ngồi phía sau xuýt xoa :
- Đúng
là danh bất hư truyền.
Quay nhìn lại. Một nửa ổ bánh mì còn cái cùi nhỏ xíu. Tôi cười to, cho
xe rẽ về hướng trái dọc theo đường Hoàng Diệu. Tôi muốn đưa nhà tôi đến một
quán hàng quen thuộc nữa. Quán của ông Tàu mập, nằm ngay ngã tư Tôn Thất Thuyết
– Hoàng Diệu. Ngày đó, tụi tôi thường gọi là “ Quán Xíu Quách “, bởi vì quán
nổi tiếng là món hủ tiếu. Tôi còn nhớ, cứ mỗi tối cuối tuần cả bọn chúng tôi
gồm Hồ Việt Thống, Hoàng văn Đức, Nguyễn văn Lưu, Phùng ngọc Long, Đoàn văn
Trường, Lý Phẩm, Phạm Phú Thái (hai tên này là dân Bồ Đề) đóng góp tiền đi ăn
nhậu. Gọi là đi ăn nhậu nhưng thật ra là chỉ có ăn mà thôi. Hoặc là đến “ Quán
Xíu Quách “ này. Hoặc là đến “ Quán Nghệ
Sĩ “ nằm quá ngã tư Tôn Thất Thuyết – Quang Trung một đoạn.
Đến Quán Xíu Quách chúng tôi chỉ có đủ khả năng kêu hai dĩa (loại dĩa sứ
lớn) xíu quách và mỗi thằng một chai nước ngọt. Xíu quách ở đây rất đặc biệt vì
có rất nhiều món. Ngoài xương heo là chính còn có mực khô, xương gà. Chấm với
hắc xì dầu và tương ớt đỏ. Vừa nói cười chọc phá nhau, vừa gặm xương cho đến
khuya rồi ai về nhà nấy. Tuần sau lại đổi chương trình, đến “ Quán Nghệ Sĩ “.
Gọi là quán thì không đúng, vì chỉ là xe Phở nhỏ nằm bên trái ngã tư Tôn Thất
Thuyết – Quang Trung. Tên Quán Nghệ Sĩ là do chúng tôi tự đặt cho có vẻ nghệ sĩ
chút đỉnh. Chả là vì thằng nào cũng văn, thơ chất ngất. Đa số đều là đoàn viên
Thi văn đoàn Sao Dị Hình Ban Mê Thuột. Không gọi là văn nghệ sĩ thì gọi là gì
đây !
Mỗi lần chúng tôi kéo đến là xe phở hết chỗ ngồi. Đây cũng là lý do để
chúng tôi ít đến nơi này. Một phần vì không được tự nhiên thoải mái và không
thể ngồi lâu chuyện trò đùa nghịch. Vẫn thích đến Quán Xíu Quách hơn và do đó
chúng tôi có rất nhiều kỷ niệm ở quán này. Những bài thơ bày đặt thương mây
khóc gió, tình ái não nùng cũng được trộn chung với mùi xíu quách, mùi xì dầu,
tương ớt ở đây !
Đến gần ngã tư, tôi cho xe chạy chậm để nhìn cho kỹ. Đã mất dấu hết rồi
! Chiếc sân rộng phơi đầy bắp. Căn nhà đã được sửa lại. Cạnh hàng rào gỗ ngăn
với nhà bên cạnh, còn dựng hai mặt bàn tròn. Có lẽ lâu ngày, mặt bàn bám bụi,
nứt nẻ và cong. Đó là dấu vết duy nhất còn xót lại của ngày nào. Lớp bụi thời
gian đã che khuất đường về. Tôi chỉ còn con đường chạy thẳng. Sự mất mát không
là lớn lao, nhưng với tôi, sao mà thấy xót xa hụt hẩng. Tôi nhớ quá, những
khuôn mặt bạn bè trong nhóm ngày xưa. Nhớ quá...
Những ngày nấn ná còn lại, tôi thật sự lạc lõng bơ vơ giữa những con
đường và khung cảnh thân quen. Tôi mang tâm trạng chơi vơi của một người đánh
mất. Đánh mất rất nhiều thứ. Đến cả như anh chàng Hoàng văn Đức (trong Thi văn
đoàn hắn lấy bút hiệu Hàn Mặc Đan ) là anh chàng được coi là thổ địa của vùng
đất kỷ niệm này cũng mất dấu. Nhà hắn ở khu Trần Hưng Đạo, gần hồ Bơi. Nhìn qua
phía bên đồi là nhà Lê Ngọc Lâm, Trần văn Chính, Nguyễn Quang Trúc, Lê chân Long, Nguyễn văn Tuấn,
Bùi thị Điều...cũng ở khu này.
Và mỗi lần đi trên đường Tôn Thất Thuyết, qua khỏi trường Tiểu học
Nguyễn Công Trứ, đến ngã tư Phan Bội Châu rồi Hoàng Diệu, tôi lại nhớ đến Hồ
việt Thống (bút hiệu Triều Phong Sương ). Nhà của Hồ Việt Thống là Tòa soạn
(gọi cho có vẻ đấy thôi) của Thi văn đoàn Sao Dị Hình. Thật ra, chỉ là chỗ để
đoàn viên nhóm họp định kỳ mỗi tháng một lần. Quy định là vậy nhưng tụi tôi vẫn
thường nhóm bạn bất kể ngày giờ và tới lui cũng chỉ mấy khuôn mặt quen. Mỗi
ngày tan học tụi tôi thường tụ về nhà Thống để chơi đùa nghịch phá như là một
cái lệ, đã thành quen. Không gặp nhau ở nhà Thống mỗi ngày lại thấy như thiếu
vắng, buồn buồn. Kể cả những ngày tháng chuẩn bị học thi Trung học Đệ Nhất Cấp,
nhà Hồ Việt Thống cũng là nơi tụ tập, chia nhóm để “dùi mài kinh sử “.
Thật ra, “tòa soạn” chính của Thi văn đoàn là tại nhà Phùng Ngọc Long (
bút hiệu Hoàng Chúc Linh) ở suối Đốc Học. Chính tại nơi này, trên căn gác nhỏ
sát mái nóng hầm hập, chúng tôi đã thực hiện được hai đặc san cho hai năm
1963-1964 và 1964-1965 lấy cùng tên là Mùa Phượng Vĩ. Tôi còn nhớ rõ khoảng
thời gian tập sự làm báo ngày đó. Điều kiện thì quá eo hẹp. Phương tiện in ấn
thì quá thô sơ. Báo được in, cắt xén, đóng tập hoàn toàn bằng tay. Hình bìa của
cả hai tờ đặc san được Thầy Trần Đắc Hiền hào phóng vẽ tặng không. Phần đánh
máy bài vở trên stancil để in được chị Mai (lúc bấy giờ chị làm việc tại tòa
Hành chánh Tỉnh) tình nguyện giúp. Vật dụng lăn in, giấy, mực do anh Hoàng
Trọng Đạt (bút hiệu Hoa Thiên) hoàn toàn ủng hộ. Anh Đạt là đoàn viên duy nhất
của Thi văn đoàn không nằm trong lứa tuổi học trò. Anh đã vào đời lăn lộn kiếm
sống, gia nhập Thi văn đoàn chỉ vì lòng yêu mến thơ, văn.
Báo in xong, chúng tôi có đến từng lớp để kêu gọi ủng hộ . Thầy Nguyễn
văn Tuấn là người ủng hộ đầu tiên. Sau đó, tất nhiên, là thầy Trần Đắc Hiền.
Rồi đến cô Tiên, thầy Kiểm, thầy Lô. Tôi còn nhớ là chẳng tên nào dám đến “
chào hàng” với thầy Ngoạn.
Khoảng thời gian đó, việc in ấn để phát hành một đặc san là một hình
thức mới lạ, một việc làm “đội đá vá trời” của mấy tay khóc-gió-than-mây. Ngay
như phong trào báo chí của Trường cũng chỉ thực hiện được bích báo (nôm na là
báo tường) hoàn toàn trang trí và viết tay. Nội dung cũng chỉ được phép trong khuôn viên sân
trường không được phép đi ngoài lằn ranh giới hạn. Phượng đỏ là vì bông Phượng
có màu đỏ. Ve kêu là tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè. Mùa Hè là mùa nghỉ học , là
mùa chia tay ai về nhà nấy trong ba tháng hè. Buồn là vì sẽ không gặp được nhau
trong một thời gian (ba tháng) theo quy định. Chỉ được buồn vì xa thầy cô xa bè
bạn. Không có buồn tình kiểu hạ-hồng-phượng-đỏ, hoa-mộng-học-trò.
Trong ánh nhìn mô phạm, đặc san Mùa Phượng Vỹ đã đi đôi hia bảy dặm. Đã dám
vượt không gian và thời gian quá sớm so với lứa tuổi đáng ra phải thức khuya
dậy sớm chuyên cần học tập chứ không phải để mơ mộng viễn vông. Cần có biện
pháp. Do lẽ đó, đặc san đã không được phát hành công khai nhưng bù lại đã được
sự ủng hộ nhiệt tình của mấy bạn đã từng mang đôi hia bảy dặm, đã hoa mộng học
trò, đã hạ hồng phượng đỏ. Trong vòng một tháng đặc san đã không còn để cung
ứng. In thêm thì quá ngại vả lại bản stancil gốc sau nhiều lần lăn qua lăn lại
đã tả tơi không còn rõ nét. Đành cáo lỗi cùng những bạn yêu mến đặc san và hẹn
sẽ tái bản ( hẹn là “tái bản” cho ra vẻ thế thôi chư làm gì có chuyện đó !).
Để gọi là mừng thắng
lợi, Thi văn đoàn tổ chức buổi tiệc họp mặt khá đông đủ tại nhà Hồ Việt Thống.
Sau đó là một chầu ciné tại rạp Lô Đô. Ai có ngờ đâu đó là buổi họp mặt cuối
cùng để rồi tan đàn xẻ nghé. Không khí thơ văn sôi nổi một thời rồi chìm lửng
theo sự mất mát của Phùng Ngọc Long, rồi Đoàn văn Trường... Thật là buồn cho
buổi tan đàn xẻ nghé, buổi bèo giạt hoa trôi !
Giờ đây trong ký ức bộn bề theo tháng, năm dâu bể, tôi nhớ lại lần lượt
những khuôn mặt bạn bè cùng trường cùng lớp. Thời gian cũng đã khá lâu, đầu óc
không còn trật tự ngăn nắp nên người nhớ người quên. Riêng về những “nhà thơ
nhà văn” học trò trong thi văn đoàn thì tôi nhớ rõ ràng từng khuôn mặt : Hoàng
Hải Sơn, Hàn Mặc Đan, Hoàng Chúc Linh, Triều Phong Sương, Hoa Thiên, Mạc Phương
Linh, Tần Phẩm, Phạm Phú Thái, Hương Lam, Lệ Anh Đào, Dạ Huyền Linh, Thùy
Anh(Nhatrang), Thái Quế (Đàlạt), Ngọc Thái Tuyết.
Và tôi vẫn nhớ đến những khuôn mặt, dù không gia nhập thi văn đoàn,
nhưng lúc nào cũng quan tâm giúp đỡ . Lê thị Mẫu Đơn, Dư Kim Hoa, Dư Kim Cúc,
Ngô thị Phin, Nguyễn thị Sơn, Ngô thị Mỹ, Nguyễn thị Thu Vân, chị Mai, chị Phạm
thị Ngọc Anh, Phùng thị Minh, anh Hồ Công Thành, Trần Vạn, bạn Phan Tiến, Lý
Phượng Hoàng, Nguyễn văn Lưu...
Những người của một thời xưa ấy nay đâu ? Ai còn ai mất !
Lần đó tôi về và đi cùng một tâm trạng là rất buồn. Tôi biết rõ là tôi
đã mất thật rồi. Banmêthuột của tôi ngày nào đã phụ rẩy lòng tôi. Tôi trở về
như một khách lạ đường xa ghé đổ thị trấn bên đường. Chẳng hề có sự ấm nồng
thân quen của cảnh tay bắt mặt mừng. Chẳng có khuôn mặt nào của ngày xưa để hàn
huyên tâm sự cho bõ vắng những ngày lưu lạc phương xa. Chỉ có bụi mù che
Banmêthuột ! Và chỉ có tôi, một mình, đi giữa phố đông. Tất cả, dường như
đã vào khuây lảng...
Chuyến xe đưa tôi ra phi trường Phụng Dực. Rừng cao su chạy dài gần tới
cây số 3. Đi thẳng là đường quốc lộ về hướng Sàigòn. Rẽ phải để ra phi trường.
Nhà Hương Lam Lữ thị Hương ở khoảng này. Giờ này không biết Hương lưu lạc
phương nào ! Kỷ niệm cuối trước khi rời trường cũ là một lần họp bạn trong Thi
văn đoàn và có ghé nhà Hương. Cả lần đi và lần về là cuộc đua xe đạp sôi nổi
hào hứng giữa cái nắng gắt gao của mùa khô Banmêthuột.
Xe qua khu Trung tâm Thực nghiệm. Phía sau rừng cây giá tỉ kia là hồ Trung
Tâm. Tôi còn giữ một tấm hình chụp chung với Đoàn văn Trường, Hồ Việt Thống,
Hoàng văn Đức, Lữ thị Hương, Lệ Anh Đào nhân dịp theo lớp đi du ngoạn. Kỷ niệm
cũng còn giữ được với Nguyễn văn Tơ, nhà ở khu Hòa Bình gần khu Thực nghiệm.
Hương vị đĩa xôi nếp trắng và món thịt nhím kho rim mà Nguyễn văn Tơ đã đặc
biệt khoản đãi cả bọn, vẫn còn phảng phất đâu đây.
Đến phi trường Phụng Dực. Trong khi chờ chuyến, tôi nhìn ra khoảng sân
rộng chói nắng vàng. Dãy nhà tole phía xa xa mái đỏ vì bụi. Những lùm bụi mắc
cở cũng đỏ hoe. Lại nhớ đến cảnh cả hai lớp Đệ Tứ năm nào, đứng sắp hàng chờ
lên chiếc C.130 để về Nhatrang thi Trung học Đệ nhất cấp. Ngày đó vẫn còn đông
đủ lắm. Đoàn văn Trường đầu chải láng xì coóng, quần tergal xanh lơ, áo
nilfranc trắng lốp. Phùng ngọc Long thì có chiếc Zippo cáo cạnh, biểu diễn bật
lửa một tay kêu lách cách và nhanh, làm cho tụi tôi đứa nào cũng lác mắt. Hoàng
văn Đức vẫn cứ mộc mạc đơn sơ bộ đồng phục của nhà trường nhưng đặc biệt là đầu
cũng tém sát rạt, láng mướt. Anh chàng Trần Phan Hưng ( là tôi đây) áo nilfranc
trắng, quần tergal đen, chơi thêm cặp kính đen ngòm làm như điệp viên Z.28. Đi thi mà làm như đi du lịch. Lần thi
đó, tội nghiệp quá, Phùng ngọc Long đã không được may mắn để rồi cuối cùng phải
vào đời và ra đi quá sớm !
Chuyến bay đã trả tôi về lại với cuộc sống hiện tại.
Nhìn xuống thành phố thân yêu của một thời gắn bó. Tôi chỉ thấy bụi
mù che Banmêthuột. Kỷ niệm đó. Bạn bè đó. Gần gụi mà quá xa xăm.
Ngày tôi dời xa Banmêthuột để vào đời trên chuyến xe cuốn bụi mịt mù. Tôi thầm
hứa sẽ về thăm lại chốn xưa. Nay tôi trở về rồi lại ra đi với một nỗi buồn.
Thảo nào người ta thường gọi Banmêthuột là Bụi Mù Trời. Buồn Muôn Thuở.
Tôi thấy buồn muôn thuở có lẽ đúng hơn.
Muôn Thuở tôi vẫn yêu cái Buồn của một nơi chốn gắn bó cùng tôi quá
nhiều kỷ niệm...
rạp chiếu bóng Lô Đô
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét